Mục đích của sự cầu nguyện:
1. Cầu nguyện là việc làm của
Đức Tin có mục đích được gặp Thiên Chúa.
2. Được chiêm ngưỡng vinh
quang, lòng thương xót, hồng ân của Thiên Chúa.
3. Được trình dâng lên Chúa
những nỗi niềm, tình cảm, tâm linh, hoàn cảnh và nội tâm của mình.
4. Ăn năn tội, cầu nguyện
những nhu cầu của mình và của người khác.
5. Được cởi mở tấm lòng, mời
Chúa ngự vào lòng để Ngài biến hóa con người tầm thường của mình trở nên đền thờ
của Ngài, mặc lại bản tính của Ngài vốn đã bị thiếu hụt do tội lỗi trong mỗi
người.
Cách thực hiện:
1. Người cầu nguyện phải có
đức tin của Chúa như Thánh Kinh dạy. Đức Tin khiến người cầu nguyện ý thức rằng
mình đang tương giao, đang thưa chuyện, đang thờ phượng Thiên Chúa, là Đấng tối
thượng, công bình, đầy ơn, giàu lòng thương xót, là Cha thiêng liêng của mình.
2. Không giới hạn tuổi tác,
trừ trẻ em chưa biết nói, không bắt buộc thân thể phải ở vào một tư thế cố định
nào cả. Để thân thể thoải mái như quỳ, đứng, ngồi, hay đang đi, đang nằm, miễn
là tâm hồn tự do, lòng khẩn nguyện hướng về Chúa.
3. Khi tâm hồn không cố gắng
định tâm, nhưng chỉ hướng về Chúa, thì tự nhiên được sự yên tịnh dễ dàng, dù
ngoại cảnh có ồn ào cũng khó bị ảnh hưởng. Nhưng cũng có khi vì nhu cầu khẩn
thiết, người cầu nguyện tạm thời bỏ qua ăn uống (kiêng ăn) để cầu nguyện.
4. Cần theo đúng Lời Chúa
Giêsu Kitô dạy về sự cầu nguyện trong Mathêu 6,1-18.
Những trở ngại:
1. Không có sự trở ngại nào
trên thân thể hay tuổi tác, sức khoẻ, trình độ tri thức khi cầu nguyện, nhưng
phải có Đức Tin của Chúa. Ngay khi đau yếu hay tuổi già, sự cầu nguyện đến với
Chúa vẫn không gặp trở ngại.
2. Khi một người đã phạm tội
mà chưa chịu ăn năn từ bỏ, chưa tiếp nhận ơn tha tội của Chúa thì rất khó cầu
nguyện. Đây là sự trở ngại về tâm linh.
3. Tâm hồn cầu nguyện với
Chúa rất dễ tập trung, vì trong đức tin lúc nào cũng biết chắc có Chúa hiện diện.
Kết quả sự cầu nguyện với
Thiên Chúa:
1. Kết quả của sự cầu nguyện
hoàn toàn khác với thiền định, vì thiền định là hành động tự mình loại bỏ phiền
não của mình, tự xem mình như không có (vô ngã) nên nội tâm dễ rơi vào trạng
thái hư ảo, hoặc tự kỷ ám thị.
Ngược lại, người cầu nguyện
với đức tin của Chúa là người biết chắc mình đang cầu nguyện với Thiên Chúa, ý
thức rõ ràng mình đang cầu nguyện với Chúa điều gì. Sau mỗi lần cầu nguyện, tâm
hồn người tin Chúa cảm nhận lòng tạ ơn Chúa, an tịnh, tin cậy, bình an, hy vọng.
Người cầu nguyện cảm nghiệm được sự nhậm lời của Chúa nên thêm lòng tin quyết
và kính sợ Chúa để tôn thờ Ngài cũng như yêu mến người lân cận.
Người cầu nguyện nhiều là
người có mối tương giao mật thiết với Chúa, nên tâm tính họ khiêm hòa, giản dị,
mạnh mẽ và khó phạm tội, nhưng dễ thể hiện tình yêu thương và lòng tha thứ.
2. Người cầu nguyện chân thật
với đức tin là người có đời sống tâm linh mạnh khỏe, thoát khỏi những phiền phức
trần thế dù đang sống giữa trần thế. Sự cầu nguyện trong Chúa không đem lại địa
vị tôn giáo, hay địa vị xã hội, nhưng được một điều cao quý thiêng liêng nhất
là được thưa chuyện với Thiên Chúa, mở hết tấm lòng mình cho Ngài. Có thể nói rằng
con người chúng ta không thể tỏ ra ngay thật với nhau một cách tuyệt đối, nhưng
ngược lại, người cầu nguyện với Chúa là người bày tỏ được sự ngay thật với Ngài
một cách sâu xa, trọn vẹn nhất. Đây là một kinh nghiệm nội tâm khi được sống
trong Chúa Thánh Thần để tiếp xúc với Đấng tối thượng, đầy ơn, yêu thương, giàu
lòng tha thứ.
3. Tóm lại, cầu nguyện là
hành động của đức tin. Tâm linh con người được tiếp xúc với Thiên Chúa chí ái bằng
năng lực Chúa Thánh Thần. Trong cuộc tiếp xúc này, Chúa Thánh Thần tỏ bày tình
yêu, nâng đỡ, che chở, khích lệ, lắng nghe để giúp con người nói ra tất cả những
gì họ cần nói. Đó là những điều sâu kín nhất mà họ không thể nói với ai được,
và cũng không ai có thể hiểu hết nỗi lòng của họ như Thiên Chúa vốn hiểu.
Trong cuộc tiếp xúc thiêng
liêng này, họ thốt lên những lời cảm tạ về sự ban cho, sự nuôi nấng, sự dắt dẫn,
sự bảo vệ, sự quan phòng mầu nhiệm mà Thiên Chúa đã dành cho riêng họ. Họ cũng
tỏ bày những tội lỗi sâu kín, những vết thương lòng sâu sắc để được Ngài tha thứ
và được chữa lành. Dù họ là người gian ác đến mấy, nhưng sau khi đã thật sự cầu
nguyện ăn năn với Chúa, vẫn được tha thứ, được tái sinh, được nhận sức sống mới.
Người cầu nguyện là người
thật sự hạnh phúc, vì đã được vào thế giới thiêng liêng của Chúa để giao cho
Ngài mọi sự, nhờ cậy Ngài mọi sự, tin cậy Ngài mọi sự.
Từ thời Cựu Ước cho đến
nay, các thánh đồ, các đấng tiên tri, con dân Chúa đã cầu nguyện và đã được
Chúa nhậm lời. Khi Chúa Giêsu Kitô giáng thế làm người, Ngài cũng cầu nguyện với
Đức Chúa Cha. Ngài dạy cho các môn đồ cầu nguyện. Trong thời Tân Ước, bất cứ ai
đã công khai tuyên xưng đức tin trong Chúa Giêsu Kitô đều có kinh nghiệm cầu
nguyện và có nhiều kết quả được Chúa nhậm lời rất kỳ diệu.
Kinh Thánh ghi lại kết quả
của những gương cầu nguyện như Môise, Anne, Gióp, Ê-li, Ê-li-sê, Ha-ba-cúc,
Giê-rê-mi, Nê-hê-mi, Ê-sai, Đa-ni-ên, Vua Đa-vít, vợ chồng thầy tế lễ Xa-cha-ri
và Ê-li-sa-bét, cụ già Si-mê-ôn, thầy phó tế Ê-tiên, tông đồ Phaolô, Gioan,
Sa-chê, người thu thuế ăn năn, người mù, một thầy đội, 120 môn đồ trên phòng
cao…
Sự cầu nguyện không theo
đúng Lời Chúa không kết quả:
1. Người cầu nguyện chỉ tin
Thiên Chúa như một vị thần hộ mệnh, thần may mắn, và cũng sẵn sàng tin bất cứ
"vị thần" nào khác; hoặc cầu nguyện vì động cơ ích kỷ, chỉ muốn cầu
điều tốt cho riêng mình để được hơn người khác (Gc 4,3).
2. Người cầu nguyện chỉ tin
có Chúa như cách ma quỷ tin (Gc 2,19), chứ không thật sự có Đức Tin theo lời dạy
của Thánh Kinh như sau đây:
- Ngài là Đức Chúa Trời tối
thượng; ngoài Ngài, không có Đức Chúa Trời nào khác (Is 44,6;
45,5.6.7.14c.18.19).
- Ngài ban Chúa Giêsu Kitô
xuống trần chịu chết trên thập tự giá để đền tội cho nhân loại (Ga 3,14-16).
- Ơn tha tội của Ngài là trọn
vẹn đối với tấm lòng ăn năn thống hối (Rm 6,10).
- Ngài tái sinh con người bề
trong, ban Chúa Thánh Thần cho người tin Ngài để soi sáng, chữa lành, an ủi,
thêm sức, dắt dẫn cuộc sống đắc thắng tội lỗi, yêu mến mọi người, mang kết quả
nước trời trên đất (Ga 1,12-13; 2Cr 5,17).
3. Người cầu nguyện không
có nhu cầu chính đáng để cầu xin, hoặc chưa hết lòng muốn được trình dâng nỗi
niềm sâu kín nhất của mình lên cho Chúa, nhưng chỉ thực hiện một lễ nghi tôn
giáo (Mt 15,6; Mc 7,6-8).
4. Người cầu nguyện chỉ nói
những lời thuộc lòng với bài bản quen thuộc trước đám đông, nhưng không thật sự
tỏ ra riêng tư kín nhiệm với Chúa (Mt 6,7).
5. Người cầu nguyện thiếu
tương giao mật thiết với Chúa trong cuộc sống thường nhật, chỉ khi đến
"nhà thờ" mới bắt chước làm theo người khác, hay khi có nhu cầu bất
chợt mới nghĩ đến cầu nguyện với Chúa. Đó là một biểu hiện không thật sự sống với
Đức Tin của Chúa.
6. Người cầu nguyện còn dối
lòng, còn một loại tội lỗi kín giấu nào đó chưa được xưng ra, hoặc chưa khao
khát từ bỏ; còn một tham vọng ích kỷ, bất chính đang giấu trong lòng, hay là một
nỗi oán hận chưa chịu buông tha, một thói quen hay trách móc người khác chưa thật
sự được đóng đinh vào thập tự giá với Chúa (Gc 4,2).
Thiên Chúa không bao giờ
đòi hỏi con người phải thánh khiết tuyệt đối, vì Ngài biết rõ bản chất con người
vốn là bất toàn, vì đã nhiễm tội lỗi, nhưng Ngài đòi hỏi con người có tấm lòng
chân thành tiếp nhận Đức Tin của Ngài, vì ngoài Đức Chúa Trời, không có một đấng
nào cao cả thiêng liêng, hiểu thấu lòng người và xứng đáng để con người thờ phượng
như Ngài.
7. Người cầu nguyện ở giữa nơi đông đúc, bị cám
dỗ bởi ngoại cảnh một cách vô thức (Mt 6,5); hay dùng lời cầu nguyện để chỉ
trích, dạy dỗ người khác hơn là trình dâng cho Chúa một nan đề thật sự. (Lc
18,11).
Vài kinh nghiệm và ý kiến
riêng của người viết:
Ai chưa từng đặt mình vào sự
cầu nguyện một cách quen thuộc cần xem lại chính mình để xưng ra với Chúa những
khờ dại, những thiếu sót của mình; rằng lòng con lâu nay ít tìm kiếm Chúa. Tâm
trí con chưa hiểu đủ về Ngài cũng như về chính con. Con cảm thấy khó nói hết mọi
điều trong đáy lòng mình. Lòng con còn những u uất rối reng chưa được giải
phóng, xin Chúa ban Thánh Linh Ngài vào lòng con để con được sự soi sáng, được
an tịnh, được dắt dẫn… để lòng con được mở ra cho Ngài.
Xin Thánh Linh cho con cảm
nhận một cách chắc chắn rằng Ngài đang ở với con ngay bây giờ. Lời Chúa dạy rằng
ai đến với Ngài dù khờ khạo cũng không lầm lạc, dù bao nhiêu tội lỗi cũng được
Ngài tha thứ; xin Chúa cho con cảm nghiệm dòng Máu Thánh của Chúa Giêsu Kitô chảy
vào tâm linh con như dòng suối tha thứ mọi tội lỗi của con, chữa lành những vết
thương trong tâm hồn và thân thể con để con được kinh nghiệm tình yêu thiên thượng
từ nơi Ngài. Xin Ngài nắm lấy con vì con không đủ sức nắm chặt Ngài, cho con được
buông mình vào tay Ngài cách tự do như đứa trẻ để con được chiêm ngưỡng, được
thờ phượng Ngài ngay trong cõi lòng bé nhỏ của con đây. Cho con nhớ lại biết
bao điều oan khuất, lỗi lầm, cố chấp, thù ghét, bất mãn trong con và con xin
Ngài đóng đinh các tội lỗi ấy trên thập tự giá của Con Ngài.
Xin Chúa xóa bỏ những
thương tổn do người khác gây ra cho con mà lâu nay con chưa tha thứ cho họ được.
Bây giờ con xin Chúa thể hiện sự tha thứ của Ngài trong lòng con để con được giải
phóng ra khỏi sự cố chấp giận hờn, vì lâu nay con khó tha thứ người khác… (Xin
đừng học thuộc lòng các lời gợi ý trên để tránh tệ trạng đọc kinh, nhưng hãy tự
xem xét lòng mình cần nói với Chúa điều chi ngay khi mình bắt đầu bước vào sự cầu
nguyện).
Mỗi lần cầu nguyện cần thưa
với Chúa những nhu cầu cụ thể, không phải nói nhiều, không nói miên man quanh
quẩn mơ hồ. Nếu chưa nói ra được thì im lặng, thiết tha khẩn nguyện, tìm kiếm ý
muốn của Chúa. Không cần kéo dài hay lặp đi lặp lại ý đã cầu nguyện, nhưng lắng
lòng với ý thức rõ rệt; biết mình đang thưa với Chúa điều gì. Khi cầu nguyện
xong, chỉ cần nghỉ ngơi hay làm việc với tâm tình tạ ơn, tin cậy và chờ đợi xem
kết quả công việc Chúa làm trong đời sống thực tế nội tâm và hoàn cảnh của
mình.
Nên đọc Kinh Thánh thường
xuyên, cần đem Lời Chúa vào lòng để mỗi khi có điều chi suy gẫm thì mình có
ngay Lời Chúa để làm nền tảng, làm ngọn đèn cho tâm linh. Luôn luôn ý thức rằng
thân thể mình là đền thờ Chúa. Chúa Thánh Thần luôn ngự trong thân thể mình mặc
dù có khi mình quên Chúa, nhưng Chúa không bao giờ quên mình. Ngay cả khi mình
đang sơ ý hay cố tình làm một điều tội lỗi, một điều buồn lòng Chúa Thánh Thần,
mình phải biết rằng không bao giờ mình
che giấu Chúa được, cần kịp thời thưa với Chúa để được Ngài giải cứu. Bản chất
xác thịt của mình vốn là tội lỗi, vì thế mình cần đến với Chúa để được Chúa
chăn dắt chứ không cần tự lên án mình và cũng không sợ mình bị ai lên án. Chúa
biết hết những gì sâu kín nhất trong nội tâm chúng ta, dù lắm khi chúng ta
không biết hết về chính mình, nhưng Chúa chờ đợi cho đến khi chúng ta thật sự cần
Ngài lắng nghe, cần Ngài soi sáng, mở mắt, mở lòng; sau đó Chúa sẽ cho chúng ta
nhận biết về mình như Ngài đã biết chúng ta (1Cr 13,9-12). Nếu chúng ta không
còn nhớ đến Chúa nữa, Ngài vẫn có nhiều cách để cáo trách, nhắc nhở, cảnh tỉnh
chúng ta. Chúa là Đấng vui lòng ban thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài (Dt 11,6; Gr
29,13).
Chúa biết rằng nhân loại
(nói chung), con dân Ngài (chung và riêng) vốn quen xa lìa Chúa, hay lơ đểnh đối
với Chúa, nên Ngài ban thử thách, cáo trách, trui rèn, nhắc nhở, thì chúng ta mới
trở lại con đường lành đem lòng tìm kiếm Ngài.
Người cầu nguyện hoàn toàn
không bị ảnh hưởng, vì người cầu nguyện làm công việc của Đức Tin từ bên trong
ra bên ngoài. Đức Tin nhìn biết Thiên Chúa là Đấng Tối Thượng mà mình đang được
chuyện trò thân thiết. Dù mình trình bày chưa đầy đủ, Ngài cũng hiểu thấu và hiểu
hết những ý tưởng mình chưa kịp nói ra.
Cầu nguyện xong, người cầu
nguyện lấy Đức Tin chờ đợi Chúa trả lời. Đức Tin và sự tỉnh thức làm cho người
cầu nguyện định tâm dễ dàng và tự nhiên, dù bên ngoài có ồn ào đến mấy thì sự cầu
nguyện vẫn thực hiện được. Bởi Đức Tin mà con người biết chắc và kinh nghiệm sự
hiện hữu của Chúa. Bởi đức tin mà con người được Chúa ban năng lực mầu nhiệm để
được thưa chuyện với Ngài, tiếp xúc với Ngài là Đấng thiêng liêng, ban phước,
an ủi, khích lệ, soi sáng, dắt dẫn, chữa lành (Dt 4,12).
Sự hiện hữu của Thiên Chúa không lệ thuộc vào đức tin
nơi con người, nhưng nếu con người không có đức tin thì không thể đến với Ngài.
Đức Tin là một sự biết chắc vững vàng vô điều kiện mà lý trí không thể ngăn trở
được. Dù chúng ta có Đức Tin hay không có Đức Tin, thì Thiên Chúa vẫn hiện hữu.
Nhưng tấm lòng vô tín không bao giờ muốn nhìn biết Thiên Chúa và không có bản
tính thích hợp để thiết lập sự giao lưu với Ngài. Trái lại, lòng mê tín không
thể tin vào Thiên Chúa nhưng lại tin vào những sự bói toán, xin xăm rất mê muội,
tin am miễu tà thần,...
Người cầu nguyện tin Chúa
là Đấng hằng hữu, biết chắc mình đang hiện hữu trước mặt Ngài. Người cầu nguyện
tiếp xúc với Ngài, chiêm ngưỡng, thờ phượng Ngài và được tâm giao với Ngài, mở
cả cõi lòng mình cho Ngài. Đây là những giây phút cao quý nhất mà tâm linh con
người thật sự bước vào thế giới thiêng liêng với Thiên Chúa. Sự hiện hữu của
người cầu nguyện với Đấng hằng hữu vô lượng thật là mầu nhiệm, chân thật và sâu
nhiệm.
Người có đức tin chắc chắn
vào sự hiện diện thiêng liêng của Thiên Chúa như Kinh Thánh soi dẫn, thì không
thể chấp nhận bất cứ một dụng cụ vật chất nào bên ngoài để thay thế, hay để đại
diện sự thiêng liêng bề trong được! Vì sao? Vì trong lòng người cầu nguyện với
đức tin luôn luôn có Chúa Thánh Thần thêm sức, soi sáng, giục giã người cầu
nguyện nói lên điều đáng nói; không phải chỉ nói với Chúa một chiều mà còn tha
thiết lắng nghe thánh ý của Ngài nữa. Khi người cầu nguyện không thể nói hết điều
cần nói, Chúa Thánh Thần giúp sức than thở thay cho người cầu nguyện như kinh
nghiệm cuộc sống đức tin của thánh Phaolô (Rm 8,26-27).
Lời Chúa xác nhận ý tưởng của
Ngài là vô lượng cao siêu mà loài người không thể hiểu thấu được (Is 55,8-9),
vì thế Ngài ban Đức Tin để mỗi người có thể nhờ Đức Tin mà giao lưu với Ngài một
cách thiêng liêng và kín nhiệm. Đức Tin là sự ban cho, là món quà Thiên Chúa tặng
riêng cho nhân loại. Nhưng nhân loại có tự do tuyệt đối để tiếp nhận hay khước
từ Đức Tin của Chúa. Dĩ nhiên nhân loại cũng đã được Ngài ban cho lý trí, lương
tâm để ý thức trách nhiệm về thái độ tự do chọn lựa của mình.
Đức Tin của Chúa được mặc
khải trong Thánh Kinh, vì thế bất cứ lòng tin hay niềm tin nào không đúng với
Thánh Kinh thì dứt khoát không phải là đức tin của Chúa. Khi tiếp nhận Đức Tin
của Chúa, tín hữu tin theo Lời Chúa và sự dắt dẫn của Chúa Thánh Thần ứng hiệp
với Lời Chúa; chứ không thể tin theo ý tưởng chủ quan của mình. Kinh Thánh là sự
mặc khải thành văn của Thiên Chúa, là ngọn đèn soi đường cho đời sống của người
có Đức Tin (Tv 119,9.105).
Sự cầu nguyện không chỉ thực
hiện khi người tin Chúa cầu nguyện riêng với Ngài, nhưng còn có thể thực hiện một
cách tự nhiên trong cuộc sống qua mọi hoàn cảnh. Khi ăn, ngủ, chuyện trò, đi lại,
làm việc, lái xe, ở cơ quan, ở nhà, trong rừng, trên biển cả, lúc thanh bình
hay giữa vòng chiến cuộc… người tin Chúa biết rằng Chúa đang ở với mình và mình có thể nói với Chúa bất cứ điều
gì mà tâm hồn mình muốn nói. Đây là mối giao lưu tuyệt vời trong cuộc sống đức
tin của Kitô hữu với Thiên Chúa thiêng liêng.
Bất cứ ai có Đức Tin, có
lòng yêu kính Chúa, có Lời Chúa, có kinh nghiệm hồng ân cứu rỗi của Chúa đều có
thể sống trong sự hiện diện của Ngài ở bất cứ hoàn cảnh nào, ở bất cứ lúc nào
trừ khi người ấy biết mình đang cố tình phạm tội. Và dù cố tình hay vô tình phạm
tội, người ấy cũng không trốn đi đâu xa mắt Chúa được.
Cho nên một tấm lòng yêu
kính Chúa được Lời Chúa ghi tạc vào, thì tấm lòng ấy sở đắc mối tương thân với
Chúa để tâm hồn được an vui hoan lạc như tình Cha con khắng khít.
Sự khác biệt giữa thiền định
và cầu nguyện của Kitô giáo (T1)
Trích từ: Berlin lập thu
2007
Joshua Huệ Nhật Nguyễn
http://conggiao.info/news/2613/16769/index.aspx