Cảm nghiệm của anh Martin
Pistorius (trong hình):
“Người ta thường hỏi tôi rằng
tôi tìm thấy Chúa lúc nào? Thật sự trong đời, tôi không bao giờ được cha mẹ dạy
cho có đức tin vào Chúa. Tôi không đọc sách hay đi nhà thờ để khám phá ra Chúa.
Tuy nhiên, tôi biết Chúa ở với tôi. Con đường đến với đức tin của tôi khác thường
nhưng tôi thấy nhiều phép lạ xẩy ra trong cuộc đời và phép lạ lớn nhất là được
sống sót, đó là do ân huệ của bàn tay Chúa.
Tôi lớn lên ở Nam Phi và là
một đứa trẻ bình thường, cho đến năm 1988 khi tôi đi học về thì tôi bị đau cổ.
Lúc ấy tôi mới có 12 tuổi. Các bác sĩ không thể giải thích cho cha mẹ tôi biết
là tôi bị bệnh gì. Trước tiên, tôi không ăn được rồi không còn nói được. Tôi mất
cảm giác về thời gian. Tôi mất luôn khả năng cử động tay chân. Thể xác tôi ngày
một yếu đi vì không còn hoạt động nữa.
Các bác sĩ kết luận rằng
tôi bị bệnh óc và sẽ chết. Tôi sống mỗi ngày trong một trung tâm dành cho trẻ tật
nguyền, buổi tối thì được về nhà để cha mẹ chăm sóc.
Trong 4 năm đầu bị bệnh,
tôi cảm thấy mình biến mất vào một thế giới tối tăm vì không biết điều gì xảy
ra chung quanh mình. Tuy tôi tỉnh thức nhưng không thể nói được, không nhớ được
điều gì. Sau khi các bác sĩ từ chối không chữa trị cho tôi thì cha mẹ tôi là những
người lo lắng cho tôi; họ mỏi mệt vì cố gắng tìm nguồn chữa lành cho tôi.
Lúc tôi được 16 tuổi thì
tôi bắt đầu tỉnh thức và hiểu được những gi xảy ra xung quanh mình. Tôi thấy
mình cô độc giữa một biển người. Tay chân tôi không cử động, và tôi không thể
nói một tiếng nào. Tôi bị giam cầm trong thể xác bất động của mình. Mọi người
biết tôi tỉnh nhưng họ nghĩ tôi bị hư bộ óc rồi. Họ cho tôi ăn uống và họ lau
chùi cho tôi sạch sẽ. Tôi được ngồi trước một cái TV và họ cho tôi xem các
chương trình nhi đồng nói về Barney. Tôi mơ ước đập nát cái TV.
Người ta nhìn chung quanh
tôi và qua tôi. Tôi muốn la hét lên, cầu xin họ nhưng họ không để ý gì đến tôi.
Tôi sống âm thầm như một hồn ma.
Thiên Thần đến giải cứu:
Khi tôi tỉnh thức thì Chúa
đến trong cuộc đời tôi. Một đêm kia như có ai đánh thức tôi. Tôi cảm thấy mình
đang bay là là trên giường của mình. Tôi biết mình không còn thở nữa. Tôi thấy
các Thiên Thần ở bên tôi, một Thiên Thần nam và hai Thiên Thần nữ. Họ đang an ủi
và hướng dẫn tôi dù không ai nói lời gì nhưng tôi có thể nghe được tiếng nói của
họ. Họ muốn tôi cùng đi với họ.
Trong một giây phút, tôi muốn
đi với họ, cuộc đời này không có gì đáng sống, không có lý do gì để tiếp tục cuộc
hành trình cuộc sống. Nhưng tôi không thể lìa xa một gia đình đang yêu thương
tôi hết mực.
Một giây phút sau đó, hơi
thở lấp đầy buồng phổi của tôi. Tôi hiểu ngay là Chúa đang ở với tôi. Dù không
biết luật lệ của giáo hội, không biết tội lỗi là gì, không biết Thánh Kinh, hay
thống hối nhưng tôi tin vào Chúa. Tôi không thể giải thích mà chỉ cảm thấy.
Người ta ở chung quanh tôi
nhưng không biết là tôi hiện hữu mà chỉ có Chúa biết. Tôi tin Chúa đang hiện diện,
đó là do tôi cảm nghiệm chứ không phải hiểu bằng tri thức.
Tôi có thể thấy các Thiên
Thần ở gần bên tôi, một nam và hai nữ. Họ luôn an ủi và hướng dẫn tôi. Họ cứ muốn
tôi cùng đi với họ. Tôi bắt đầu cầu nguyện với Chúa. Dù tôi không thể chắp tay
hay quỳ gối vì tôi bị giam hãm trong thể xác.
Tôi bắt đầu nói chuyện với
Chúa. Tôi cầu nguyện cho có ai đó đến và giúp chuyển động cái thân xác đau nhức
của tôi. Tôi xin Chúa bảo vệ gia đình tôi. Tôi xin Chúa vài dấu hiệu để một
ngày nào đó, tôi được Chúa giải thoát khỏi thế giới câm lặng của mình.
Đôi khi lời cầu nguyện của
tôi được Chúa nhận lời, đôi khi không được nhận lời. Có lúc tôi cảm thấy thất vọng
và bất lực, thì Chúa dạy tôi phải biết tạ ơn Chúa để bớt thất vọng.
Khi một lời cầu nguyện nhỏ
nhoi được Chúa nhận lời thì tôi cảm tạ Chúa ngay. Càng bị giam hãm trong cô độc,
tôi càng sống gần với Chúa hơn.”
"Trong 9 năm trời ròng
rã, không ai biết có một sự thông minh bị giam cầm trong tôi. Thỉnh thoảng gia
đình đưa tôi đến nhà thờ nhưng sự thờ phượng chính thức không làm cho tôi chú
ý.
Khi tôi thăm ông bà nội thì
tôi thấy họ cầu nguyện cho tôi nhưng tôi không cảm thấy có sự liên hệ nào với
những lời cầu nguyện ấy.
Một ngày kia, ba tôi đẩy xe
lăn cho tôi đến một cửa tiệm, ở đó có một phụ nữ thấy tôi với thân xác rũ liệt
và đôi mắt thất thần, bà ta bèn cầu nguyện cho tôi và đụng vào đầu tôi. Tôi cảm
thấy bối rối, tại sao một người lạ mà lại làm điều lạ thường này cho tôi?
Đến nằm 2001, lời cầu nguyện
của tôi được Chúa nhận lời và đáp trả, tôi tìm thấy tình yêu và giáo hội.
Một nhân viên xoa bóp trị
liệu ở trung tâm phục hồi cảm thấy tôi có thể hiểu những gì mà bà nói với tôi.
Bà khuyên cha mẹ tôi nên cho tôi đến một trung tâm trị liệu về ngôn ngữ.
Tôi ngồi đó và cầu nguyện
xin Chúa hướng dẫn và ban ơn lành. Một nhà chuyên môn ngồi tại đầu bàn phía bên
kia hỏi tôi rằng:
"Hãy trả lời những câu
hỏi bằng đôi mắt của anh."
Bà cho biết rằng tôi có thể
học để đối thoại. Sự thông minh bị chôn chặt trong tôi nay được dịp phát triển.
Tôi học cách thức để đối thoại. Thế rồi tôi học đối thoại bằng những chương
trình computer. Trong vòng 18 tháng, tôi có thể nói và dùng “tiếng nói của
computer”.
Tôi bắt đầu giảng giải về
cuộc đối thoại và tình nguyện thực tập. Sau đó, tôi tốt nghiệp với bằng danh dự
và làm thương mại với tính cách là một người sáng tạo về mạng lưới điện toán. Tất
cả mọi giao thiệp và đối thoại đều bằng computer.
Trong thời gian ấy, đức tin
của tôi là một phần của cuộc đời tôi nhưng tôi không cảm thấy mình thuộc về
giáo hội. Vào ngày Tết Dương Lịch 2008, tôi gặp một người đặc biệt. Cha mẹ tôi
và tôi liên lạc với em gái tôi lúc ấy đang ở nước Anh. Tình cờ có một người bạn
của em gái tôi là cô Joanna đang ở chung phòng với em.
Cô này đã làm cho tôi chú
ý. Chúng tôi cho nhau địa chỉ email và nói chuyện trên mạng. Joanna nói chuyện
còn tôi thì đánh máy. Chúng tôi cảm thấy yêu thương nhau.
Cô Joanna lớn lên là người
Kitô hữu và cô hiểu nhiều về giáo hội. Khi chúng tôi nói với nhau về đức tin
thì tôi bắt đầu hiểu nhiều hơn. Sau khi nói chuyện khoảng 6 tháng, tôi đến thăm
Joanna lần đầu tại nước Anh.
Một trong những hoạt động
chung của hai chúng tôi là nghi thức thờ phương Chúa tại nhà thờ. Đó là lần đầu
tiên tôi hiểu rằng cần có hai người thì tốt hơn là một người, bởi vì đó là một
cần thiết cho công tác lao động của họ.
“Nếu một trong hai người
ngã xuống thì người này giúp đỡ người kia. Thật là tội nghiệp cho ai té ngã mà
không có người nào giúp đỡ mình đứng lên.” (Ecc. 4:9–10)
Tháng 12 năm đó, tôi dọn
sang nước Anh, nơi mà Joanna và tôi học Thánh Kinh chung. Tôi bắt đầu với Thánh
Kinh dành cho trẻ thơ rồi sau đó mới lắng nghe băng Thánh Kinh một mình. Sáu
tháng sau đó, Joanna và tôi làm phép cưới.
Thiên Chúa đã đem chúng tôi
tới với nhau và bây giờ Ngài ở với chúng tôi khi chúng tôi xum họp trong sự hiện
diện của Chúa.
Joanna và tôi tiếp tục tham
dự nhà thờ. Cuộc sống của tôi giống như nhiều người khác, đầy công việc và những
cuộc hẹn nên đôi khi thật khó để tìm thời gian và không gian mà liên lạc với
Chúa.
Trong thời gian tôi bị buộc
phải giam hãm trong thinh lặng, tôi có dư thời gian và không gian. Nay tôi tìm được bình an trong sự thờ
phượng Thiên Chúa. Trong nhiều cách, mối liên hệ giữa Chúa và tôi vẫn như cũ:
thinh lặng và riêng tư trong cuộc đời tôi.
Nếu không có Chúa thì tôi
không còn ở đây ngày hôm nay. Tôi chắc chắn rằng Chúa luôn can thiệp để cứu
thoát tôi. Chỉ có qua Chúa mà tôi tìm được tiếng nói của mình.
Kim Hà