Ads

Thứ Năm, 23 tháng 7, 2015

BỆNH NHÂN CHỊU ĐAU KHỔ TRONG THINH LẶNG

Cảm nghiệm của anh Martin Pistorius (trong hình):
“Người ta thường hỏi tôi rằng tôi tìm thấy Chúa lúc nào? Thật sự trong đời, tôi không bao giờ được cha mẹ dạy cho có đức tin vào Chúa. Tôi không đọc sách hay đi nhà thờ để khám phá ra Chúa. Tuy nhiên, tôi biết Chúa ở với tôi. Con đường đến với đức tin của tôi khác thường nhưng tôi thấy nhiều phép lạ xẩy ra trong cuộc đời và phép lạ lớn nhất là được sống sót, đó là do ân huệ của bàn tay Chúa.
Tôi lớn lên ở Nam Phi và là một đứa trẻ bình thường, cho đến năm 1988 khi tôi đi học về thì tôi bị đau cổ. Lúc ấy tôi mới có 12 tuổi. Các bác sĩ không thể giải thích cho cha mẹ tôi biết là tôi bị bệnh gì. Trước tiên, tôi không ăn được rồi không còn nói được. Tôi mất cảm giác về thời gian. Tôi mất luôn khả năng cử động tay chân. Thể xác tôi ngày một yếu đi vì không còn hoạt động nữa.
Các bác sĩ kết luận rằng tôi bị bệnh óc và sẽ chết. Tôi sống mỗi ngày trong một trung tâm dành cho trẻ tật nguyền, buổi tối thì được về nhà để cha mẹ chăm sóc.
Trong 4 năm đầu bị bệnh, tôi cảm thấy mình biến mất vào một thế giới tối tăm vì không biết điều gì xảy ra chung quanh mình. Tuy tôi tỉnh thức nhưng không thể nói được, không nhớ được điều gì. Sau khi các bác sĩ từ chối không chữa trị cho tôi thì cha mẹ tôi là những người lo lắng cho tôi; họ mỏi mệt vì cố gắng tìm nguồn chữa lành cho tôi.
Lúc tôi được 16 tuổi thì tôi bắt đầu tỉnh thức và hiểu được những gi xảy ra xung quanh mình. Tôi thấy mình cô độc giữa một biển người. Tay chân tôi không cử động, và tôi không thể nói một tiếng nào. Tôi bị giam cầm trong thể xác bất động của mình. Mọi người biết tôi tỉnh nhưng họ nghĩ tôi bị hư bộ óc rồi. Họ cho tôi ăn uống và họ lau chùi cho tôi sạch sẽ. Tôi được ngồi trước một cái TV và họ cho tôi xem các chương trình nhi đồng nói về Barney. Tôi mơ ước đập nát cái TV.
Người ta nhìn chung quanh tôi và qua tôi. Tôi muốn la hét lên, cầu xin họ nhưng họ không để ý gì đến tôi. Tôi sống âm thầm như một hồn ma.
Thiên Thần đến giải cứu:
Khi tôi tỉnh thức thì Chúa đến trong cuộc đời tôi. Một đêm kia như có ai đánh thức tôi. Tôi cảm thấy mình đang bay là là trên giường của mình. Tôi biết mình không còn thở nữa. Tôi thấy các Thiên Thần ở bên tôi, một Thiên Thần nam và hai Thiên Thần nữ. Họ đang an ủi và hướng dẫn tôi dù không ai nói lời gì nhưng tôi có thể nghe được tiếng nói của họ. Họ muốn tôi cùng đi với họ.
Trong một giây phút, tôi muốn đi với họ, cuộc đời này không có gì đáng sống, không có lý do gì để tiếp tục cuộc hành trình cuộc sống. Nhưng tôi không thể lìa xa một gia đình đang yêu thương tôi hết mực.
Một giây phút sau đó, hơi thở lấp đầy buồng phổi của tôi. Tôi hiểu ngay là Chúa đang ở với tôi. Dù không biết luật lệ của giáo hội, không biết tội lỗi là gì, không biết Thánh Kinh, hay thống hối nhưng tôi tin vào Chúa. Tôi không thể giải thích mà chỉ cảm thấy.
Người ta ở chung quanh tôi nhưng không biết là tôi hiện hữu mà chỉ có Chúa biết. Tôi tin Chúa đang hiện diện, đó là do tôi cảm nghiệm chứ không phải hiểu bằng tri thức.
Tôi có thể thấy các Thiên Thần ở gần bên tôi, một nam và hai nữ. Họ luôn an ủi và hướng dẫn tôi. Họ cứ muốn tôi cùng đi với họ. Tôi bắt đầu cầu nguyện với Chúa. Dù tôi không thể chắp tay hay quỳ gối vì tôi bị giam hãm trong thể xác.
Tôi bắt đầu nói chuyện với Chúa. Tôi cầu nguyện cho có ai đó đến và giúp chuyển động cái thân xác đau nhức của tôi. Tôi xin Chúa bảo vệ gia đình tôi. Tôi xin Chúa vài dấu hiệu để một ngày nào đó, tôi được Chúa giải thoát khỏi thế giới câm lặng của mình.
Đôi khi lời cầu nguyện của tôi được Chúa nhận lời, đôi khi không được nhận lời. Có lúc tôi cảm thấy thất vọng và bất lực, thì Chúa dạy tôi phải biết tạ ơn Chúa để bớt thất vọng.
Khi một lời cầu nguyện nhỏ nhoi được Chúa nhận lời thì tôi cảm tạ Chúa ngay. Càng bị giam hãm trong cô độc, tôi càng sống gần với Chúa hơn.”
"Trong 9 năm trời ròng rã, không ai biết có một sự thông minh bị giam cầm trong tôi. Thỉnh thoảng gia đình đưa tôi đến nhà thờ nhưng sự thờ phượng chính thức không làm cho tôi chú ý.
Khi tôi thăm ông bà nội thì tôi thấy họ cầu nguyện cho tôi nhưng tôi không cảm thấy có sự liên hệ nào với những lời cầu nguyện ấy.
Một ngày kia, ba tôi đẩy xe lăn cho tôi đến một cửa tiệm, ở đó có một phụ nữ thấy tôi với thân xác rũ liệt và đôi mắt thất thần, bà ta bèn cầu nguyện cho tôi và đụng vào đầu tôi. Tôi cảm thấy bối rối, tại sao một người lạ mà lại làm điều lạ thường này cho tôi?
Đến nằm 2001, lời cầu nguyện của tôi được Chúa nhận lời và đáp trả, tôi tìm thấy tình yêu và giáo hội.
Một nhân viên xoa bóp trị liệu ở trung tâm phục hồi cảm thấy tôi có thể hiểu những gì mà bà nói với tôi. Bà khuyên cha mẹ tôi nên cho tôi đến một trung tâm trị liệu về ngôn ngữ.
Tôi ngồi đó và cầu nguyện xin Chúa hướng dẫn và ban ơn lành. Một nhà chuyên môn ngồi tại đầu bàn phía bên kia hỏi tôi rằng:
"Hãy trả lời những câu hỏi bằng đôi mắt của anh."
Bà cho biết rằng tôi có thể học để đối thoại. Sự thông minh bị chôn chặt trong tôi nay được dịp phát triển. Tôi học cách thức để đối thoại. Thế rồi tôi học đối thoại bằng những chương trình computer. Trong vòng 18 tháng, tôi có thể nói và dùng “tiếng nói của computer”.
Tôi bắt đầu giảng giải về cuộc đối thoại và tình nguyện thực tập. Sau đó, tôi tốt nghiệp với bằng danh dự và làm thương mại với tính cách là một người sáng tạo về mạng lưới điện toán. Tất cả mọi giao thiệp và đối thoại đều bằng computer.
Trong thời gian ấy, đức tin của tôi là một phần của cuộc đời tôi nhưng tôi không cảm thấy mình thuộc về giáo hội. Vào ngày Tết Dương Lịch 2008, tôi gặp một người đặc biệt. Cha mẹ tôi và tôi liên lạc với em gái tôi lúc ấy đang ở nước Anh. Tình cờ có một người bạn của em gái tôi là cô Joanna đang ở chung phòng với em.
Cô này đã làm cho tôi chú ý. Chúng tôi cho nhau địa chỉ email và nói chuyện trên mạng. Joanna nói chuyện còn tôi thì đánh máy. Chúng tôi cảm thấy yêu thương nhau.
Cô Joanna lớn lên là người Kitô hữu và cô hiểu nhiều về giáo hội. Khi chúng tôi nói với nhau về đức tin thì tôi bắt đầu hiểu nhiều hơn. Sau khi nói chuyện khoảng 6 tháng, tôi đến thăm Joanna lần đầu tại nước Anh.
Một trong những hoạt động chung của hai chúng tôi là nghi thức thờ phương Chúa tại nhà thờ. Đó là lần đầu tiên tôi hiểu rằng cần có hai người thì tốt hơn là một người, bởi vì đó là một cần thiết cho công tác lao động của họ.
“Nếu một trong hai người ngã xuống thì người này giúp đỡ người kia. Thật là tội nghiệp cho ai té ngã mà không có người nào giúp đỡ mình đứng lên.” (Ecc. 4:9–10)
Tháng 12 năm đó, tôi dọn sang nước Anh, nơi mà Joanna và tôi học Thánh Kinh chung. Tôi bắt đầu với Thánh Kinh dành cho trẻ thơ rồi sau đó mới lắng nghe băng Thánh Kinh một mình. Sáu tháng sau đó, Joanna và tôi làm phép cưới.
Thiên Chúa đã đem chúng tôi tới với nhau và bây giờ Ngài ở với chúng tôi khi chúng tôi xum họp trong sự hiện diện của Chúa.
Joanna và tôi tiếp tục tham dự nhà thờ. Cuộc sống của tôi giống như nhiều người khác, đầy công việc và những cuộc hẹn nên đôi khi thật khó để tìm thời gian và không gian mà liên lạc với Chúa.
Trong thời gian tôi bị buộc phải giam hãm trong thinh lặng, tôi có dư thời gian và không  gian. Nay tôi tìm được bình an trong sự thờ phượng Thiên Chúa. Trong nhiều cách, mối liên hệ giữa Chúa và tôi vẫn như cũ: thinh lặng và riêng tư trong cuộc đời tôi.
Nếu không có Chúa thì tôi không còn ở đây ngày hôm nay. Tôi chắc chắn rằng Chúa luôn can thiệp để cứu thoát tôi. Chỉ có qua Chúa mà tôi tìm được tiếng nói của mình.
Kim Hà