“Thánh Giuse gồm no mọi
nhân đức”
Kinh Thánh chỉ mô tả thánh
Giuse bằng một từ ngữ ngắn gọn: “Người Công Chính”. Dĩ nhiên, khái niệm “công
chính” ở đây được hiểu theo nghĩa Tân Ước, tức là con người trọn lành, bao
dung, nhân từ, theo mẫu gương của Chúa Giêsu. Giáo Hội thường suy tôn thánh
Giuse với nhiều tước hiệu cao trọng:
Ông thánh Giuse là đấng
sáng láng trên hết các thánh Tổ Tông.
Ông thánh Giuse trọn tốt trọn
lành.
Ông thánh Giuse cực thanh cực
tịnh.
Ông thánh Giuse cực khôn cực
ngoan.
Ông thánh Giuse hay vâng lời
chịu lụy.
Ông thánh Giuse là đấng
ngay chính tận trung.
Ông thánh Giuse là gương
nhân đức nhịn nhục.
Ông thánh Giuse yêu chuộng
nhân đức khó khăn.
Ông thánh Giuse là mẫu sáng
láng về cách ở trong nhà, v.v…
* Các tước hiệu đó có thể gồm
tóm trong câu “thánh Giuse gồm no mọi nhân đức”: khiết tịnh, vâng phục, nghèo
khó, nhẫn nhục, khiêm nhường, v.v… Nhân đức mà “no” luôn là phải biết! Tuy
nhiên, đối với dân làng Nazareth cách đây hơn 2000 năm, thì thánh Giuse cũng chỉ
là một bác thợ mộc âm thầm vô danh tiểu tốt, thế thôi! Bên ngoài chẳng có gì đặc
biệt, chẳng có gì khiến người khác phải chú ý. Suốt gần ba mươi năm sống bên cạnh
Chúa Giêsu và Đức Mẹ, thánh Giuse không để lại một tác phẩm, một công trình,
hay một câu nói để đời nào. Ngài chỉ âm thầm lặng lẽ chu toàn bổn phận làm chồng,
làm cha của mình một cách tốt nhất có thể.
* Lúc đã về trời, xem ra
thánh Giuse vẫn tiếp tục “sống âm thầm lặng lẽ”. Lặng lẽ âm thầm cả trong việc
can thiệp cho những nhu cầu của nhân thế. Đức Mẹ còn hiện ra nơi này nơi nọ,
còn thánh Giuse rất hiếm khi. Có chăng chỉ là mộng báo trong giấc ngủ, hay là
âm thầm giả trang để thực hiện việc này việc nọ cho các con cái của mình. Tuy
nhiên, sự can thiệp của ngài thường rất kỳ diệu.
* Xin được dẫn chứng: sau khi
khánh thành nguyện đường Loretta, tiểu bang New Mexico, năm 1878, thì thực tế nảy
sinh một vấn đề hết sức nan giải: ca đoàn gồm toàn các nữ tu và nữ sinh với tu
phục và váy đầm dài tới gót chân, không thể leo lên gác ca đoàn bằng chiếc
thang gỗ. Bởi lẽ vào thế kỷ thứ 19, chỉ có phái nam được hát trong ca đoàn nên
họ dùng thang gỗ để leo lên gác ca đoàn mà không cần cầu thang.
* Các nữ tu đã mời nhiều tay
thợ chuyên nghiệp đến làm cầu thang nhưng sau khi quan sát, đo đạc, tính toán,
tất cả đều lắc đầu nói không thể thực hiện được vì gác ca đoàn thì cao, lòng
nhà nguyện lại hẹp, cầu thang sẽ chiếm qúa nhiều chỗ kê ghế. Sau cùng, Mẹ Bề
Trên Magdalenđưa ra quyết định: khi khởi công xây dựng nguyện đường, công trình
được đặt dưới sự bảo trợ của Thánh Giuse, quan thầy nghề thợ mộc, thì nay khi gặp
khó khăn, công việc cũng phải được giao cho Thánh Giuse lo liệu. Ngay hôm đó,
các nữ tu bắt đầu làm tuần 9 ngày xin Thánh Giuse. Sau 8 ngày liên tục cầu nguyện
với lòng tin tưởng và phó thác nơi Thánh Giuse thì đột nhiên vào ngày thứ 9, xuất
hiện một ông già râu tóc bạc dắt theo một con lừa tới xin làm cầu thang lên gác
ca đoàn. Ông thợ mộc chỉ mang theo một ít đồ nghề đơn giản: 1 cái cưa, 1 thước
đo hình chữ T và 1 cái búa. Ông cũng không đòi tiền công trước hoặc tiền ứng
mua vật liệu. Với tinh thần đơn sơ, các nữ tu nghĩ rằng sẽ thanh toán tiền công
và tiền vật liệu sau khi công việc hoàn tất nên không cần hỏi tên tuổi ông thợ.
* Sau thời gian 7-8 tháng,
các nữ tu được thông báo cầu thang đã hoàn tất nhưng không tìm thấy ông thợ đâu
hết: ông thợ đã đột nhiên bỏ đi mà không đòi tiền công và tiền vật liệu, cũng
không để lại tên tuổi hoặc điạ chỉ. Các nữ tu đã nhờ tìm kiếm khắp nơi, tuy
nhiên, không ai nghe biết về ‘ông thợ kỳ lạ’ này.
* Và rồi Mẹ Bề Trên đã phải đến
xưởng gỗ để thanh toán tiền vật liệu, nhưng mọi người làm việc tại đây cho biết
không có ai đến mua gỗ làm cầu thang cho nguyện đường. Do không tìm ra tông
tích ông thợ ‘huyền bí’ này nên người đương thời đều kết luận đó chính là Thánh
Giuse đã đáp lời cầu xin của các nữ tu.
* Điều đáng nói nữa là sự kỳ
diệu của chiếc cầu thang. Chíêc cầu thang có hình xoắn ốc ngoằn ngoèo, mà không
có cột chịu lực nào ở giữa. Toàn bộ sức nặng tựa trên chân cầu thang và phần nối
với gác ca đoàn. Điều này trái hẳn với nguyên lý về trọng lực khiến các khoa học
gia không sao giải thích được. Kiến trúc sư Urban C. Weidner cũng là chuyên gia
nghiên cứu gỗ cho biết ông chưa bao giờ thấy cầu thang hình xoắn ốc bằng gỗ mà
không có cột chịu lực ở giữa. Theo ông, nó sẽ sụp đổ ngay khi có người đặt chân
bước lên. Thế mà các nữ tu phải lên xuống cầu thang mỗi ngày để hát phụng vụ.
Năm 1959, cả ca đoàn học viện Loretto đứng hát trên các bậc thang mà nó vẫn vững
chắc như làm bằng ximăng cốt sắt.
* Về gỗ làm cầu thang, nhiều
chuyên gia đã phân tích, tìm hiểu loại gỗ và xem loại đó xuất xứ từ đâu. Tuy
nhiên, không một ai có thể khẳng định là loại gỗ nào để tìm ra xuất xứ của nó.
Việc ông thợ lấy gỗ từ đâu mang về làm cầu thang vẫn còn là một bí ẩn.
* Cầu thang có 33 bậc cùng một
kích thước, tượng trưng cho 33 năm Chúa sống ở trần gian. Điều đặc biệt nữa là
cầu thang không có dù 1 chiếc đinh, hoặc keo dán để liên kết các vật liệu với
nhau. Ông thợ ‘bí mật’ đó chỉ dùng các chốt gỗ hình vuông để liên kết một cách
tài tình, chính xác và hết sức mỹ thuật.
* Kiến trúc sư kiêm chuyên
gia nghiên cứu gỗ Urban Weidner đã có nhận xét: một trong những điều làm sửng sốt
các kỹ sư và các nhà kiến trúc là những tấm gỗ được ghép nối thành sườn cầu
thang với độ cong tuyệt hảo, mỗi tấm gỗ có độ cong thật chính xác, đường ghép nối
lại hết sức tinh vi, không tìm thấy một khuyết điểm nào. Ông vẫn không lý giải
nổi tại sao một kỹ thuật tinh vi như thế mà vào thập niên 1870, một mình ông thợ
mộc với những dụng cụ rất thô sơ, lại có thể thực hiện được.
* Và cho đến nay, mỗi năm được
biết có khoảng 250 ngàn khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới đến nguyện
đường Loretta để chiêm ngưỡng chiếc cầu thang lạ lùng này, trong số đó, có cả kỹ
sư, kiến trúc sư, khoa học gia đến tìm hiểu và nghiên cứu.
Phép lạ đó nói lên điều gì,
nếu không phải nói lên rằng sự can thiệp của thánh Giuse thường rất âm thầm lặng
lẽ (lặng lẽ 7-8 tháng trời), nhưng rất diệu kỳ.
* Có lẽ vì các nhân đức trỗi
vượt của thánh Giuse và đặc biệt là vì sự đáp ứng mau mắn cho những ai kêu cầu,
mà thánh Giuse là vị thánh được nhiều người yêu mến nhất, ngoài trừ Đức Mẹ. Người
ta ước chừng một phần tư nam giới Kitô giáo, tức là khoảng một phần tám dân số
Kitô giáo nhận thánh Giuse làm Bổn Mạng. Rất nhiêu dòng tu còn nhận ngài làm
Quan Thầy của dòng, và nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam được đặt dưới sự bảo
trợ của thánh Giuse. Thánh Giuse cũng là Bổn mạng của toàn thể giới Gia Trưởng.
Vì thế anh em Gia trưởng được mời gọi theo gương sống của thánh Quan Thầy, sống
xứng đáng là người chồng người cha mẫu mực thánh thiện. Sống thánh thiện mẫu mực
một cách cụ thể đó là gì?
* Trong tập Kỷ Yếu của Gia
Trưởng Giáo phận, tôi đọc thấy một bài thơ rất ý nghĩa của một gia trưởng ở
giáo xứ Thuận Nghĩa.
Bài thơ có tựa đề “Mười Không, Mười Có”. Xin được trích lại:
Mười “Không”
Một không say xỉn la cà
Hai không bài bạc cửa nhà
tan hoang.
Ba không lừa dối điếm đàng,
Bốn không trộm cướp, xóm
làng bất an.
Năm không lươn lẹo tham
giàu,
Sáu không ma tuý đời tàn ai
ơi.
Bảy không biếng nhác ươi lười.
Tám không mèo mỡ bạn đời
lung tung.
Chín không bất nghĩa bất
trung,
Mười không kiêu ngạo và
không bất bình.
Mười “Có”
Một có đạo đức chân thành
Dựng xây đoàn hội, gia đình
chăm lo.
Hai có trách nhiệm lớn to.
Dựng xây nước Chúa sao cho
vẹn toàn.
Ba có bổn phận lo toan,
Bảo vệ giáo xứ cộng đoàn
vui tươi.
Bốn có bác ái thương người,
Chung xây xã hội đẹp tươi
an bình.
Năm có thiện chí hy sinh,
Giúp người hoạn nạn, bất
hoà khổ đau.
Sáu có nhân nghĩa trước
sau,
Giúp đời vơi bớt nỗi sầu bất
công.
Bảy có thiện ý thực lòng,
Giúp đời tốt đẹp cả trong lẫn
ngoài.
Tám có trí sạch lòng ngay,
Để đời ta có tháng ngày thảnh
thơi.
Chín có mến Chúa yêu người,
Lòng thanh, trí sạch, sáng
ngời quanh năm.
Mười có quyết chí quyết
tâm,
Thành Gia trưởng tốt – đến
gần Giuse.
Chắc chắn thánh Giuse là
người giữ “Mười Không và Mười Có” đó triệt để hơn ai hết. Cầu chúc các anh em
Gia Trưởng trong các gia đình Công giáo cũng luôn giữ được như thế!
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long