“Đối với tôi, sống là Đức
Ki-tô, và chết là một mối lợi”. (Pl 1, 21)
Ngay khi còn sống, con người
đã mang trong mình sự chết, vì thế mà con người sẽ phải chết. Chết là một kết
thúc của ta trong cuộc sống này, và mọi cái ta sở hữu cũng đều chấm dứt. Thật
là một tư tưởng cay đắng cho những ai chỉ biết vui hưởng của cải trần gian,
nhưng lại là một viễn tượng đáng khát vọng cho những người sống cơ cực (x. Hc
41,1) Sự chết nhắc nhở ta về bản chất thật ngắn ngủi, thật mong manh phù du của
đời sống con người trên dương thế. Đứng trước định mệnh khắt khe đó, người ta dễ
có một nhận định sầu thảm đôi khi sinh ra một thất vọng chán chường (x. Sm 12,
23). Tuy nhiên sự khôn ngoan chân thực thì vượt xa nhận định ấy khi nhận biết
thân phận mình nằm trong vòng tay Thiên Chúa. Điều đó giúp ta khám phá ý nghĩa
sự sống đích thực qua sự chết. Khi nghĩ đến những người đã chết, chúng ta cũng
phải nghĩ tới cái chết của chính bản thân mình. Đó là chuyến đi cuối cùng, một
chuyến đi quyết định và quan trọng hơn tất cả, chuyến đi vĩnh viễn không bao giờ
trở lại.
Xin dẫn bước nhân loại
chúng con về miền ánh sáng vô tận, nơi Chúa ngự trị và vinh hiển
muôn đời.
Nguồn gốc sự chết và sự sống
lại trong Kitô giáo
Công đồng Vat.II đã nói lên tình trạng của con người trước cái
chết như sau: “Trước cái chết, bí ẩn về thân phận con người lên tới tột độ. Con
người không những bị hành hạ bởi đau khổ và sự tiến dần đến tan rã của thân
xác, mà hơn thế nữa, còn bị dày vò bởi nỗi lo sợ bị tiêu diệt đời đời... Mọi cố
gắng của kỹ thuật, dù rất hữu ích, cũng không thể làm nguôi được nỗi lo âu của
con người: bởi vì đời sống sinh vật, dù có được kéo dài thêm đi nữa, cũng không
thể thỏa mãn được khát vọng một cuộc sống mai hậu đã được in sâu trong lòng con
người.
Trước cái chết, óc tưởng tượng
của con người đành bất lực. Nhưng Giáo Hội, được Mạc khải của Thiên Chúa dạy bảo,
quả quyết rằng con người được Chúa dựng nên để đạt tới cứu cánh hạnh phúc sau
những khổ cực trần thế này. Hơn nữa, đức tin Kitô giáo còn dạy rằng giả như con
người không phạm tội, thì đã không phải chết; sự chết này sẽ bị đánh bại khi Đấng
Cứu Thế toàn năng và nhân ái mang lại cho con người sự cứu rỗi mà vị tội lỗi, họ
đã đánh mất. Bởi vì Thiên Chúa đã và đang kêu gọi con người đem toàn thân kết hợp
với Ngài trong sự hiệp thông vĩnh viễn vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa.
Chúa Kitô đã đem lại chiến thắng ấy khi Người sống lại và nhờ cái chết của Người,
Người đã giải phóng con người khỏi sự chết. Vậy đức tin với những lý chứng vững
chắc đem lại giải đáp cho bất cứ ai khắc khoải ưu tư về số phận tương lai của
mình. Đồng thời đức tin còn cho con người khả năng hiệp thông với những anh em
thân yêu đã chết trong Chúa Kitô, và làm cho họ hy vọng rằng những người ấy đã
được sống thực sự nơi Thiên Chúa” (GS 18).
Thật vậy, để giải thoát ta
khỏi quyền lực Thần chết, trước tiên Đức Kitô đã đến để nhận lấy cho mình số phận
tử vong của chúng ta. Ngài thực hiện thánh ý của Chúa Cha là muốn cứu độ tất cả
mọi người. Ngài đã chết “vì chúng ta” (1 Tx 5, 10) “cho tội chúng ta” (1Cr 15,
3) để làm hy tế xá tội (x. Dt 9). Nhờ cái chết của Ngài, chúng ta được hòa giải
với Thiên Chúa (x. Rm 5, 10) hầu có thể lãnh nhận gia nghiệp muôn đời (x. Dt
9, 15). Ngài đã chiến thắng tử thần bằng sự phục sinh vinh hiển (x. 1Cr 15, 4) nên quyền lực của Thần chết từ đó đã bị vô hiệu hóa (x. Rm 6, 9). Kể từ giây
phút đó, tương quan của con người với sự chết đã thay đổi, vì từ nay Đức Kitô
chiến thắng sẽ luôn chiếu soi “những người ngồi trong bóng sự chết” (Lc 1, 79).
Qua việc phục sinh, Ngài trở
nên thủ lãnh của một nhân loại mới (x.1Cr 15, 45), vì Ngài đã mang tất cả chúng
ta đi vào cái chết và sự phục sinh của Ngài. Tuy nhiên, cái chết để được phục
sinh này của chúng ta còn phải là một thực tại hiện hữu cho mỗi cá nhân, vì
không ai có thể bước vào cõi sống mà không chết đi cho chính mình từng ngày
trong cái chết của Đức Kitô để được sống lại như Ngài (x. 2Tm 2, 11).
*************
Bài học sâu xa từ sự chết
Không có một đức tin sâu
xa, thì cái chết quả là điều kinh khủng, đáng lo sợ, vì không biết cuộc đời
mình sẽ đi đâu, về đâu? Do đó, nhiều người muốn tránh né, không muốn nghe hoặc
không muốn nói đến sự chết. Léo Buscaglia, một chuyên viên dạy về tình yêu và
cuộc sống, chia sẻ tâm trạng của ông khi nghĩ về sự chết như sau:
“Chúng ta phải bắt tay làm
hòa với sự chết để chọn lấy sự sống, vì sự chết là một người bạn thân thiết với
chúng ta. Nó cho biết những gì chúng ta không thể giữ lại được mãi cho mình. Và
nếu bạn muốn sống, thì nên sống trọn vẹn ngay từ bây giờ...
Nếu bạn đã sống mọi khoảnh
khắc mà Chúa ban cho bạn, thì bạn sẽ không than van khóc lóc khi cái chết đến...
Những người đã chết một cách hạnh phúc là những người từng nỗ lực để sống.
Sự chết là một thách đố. Nó
nhắc nhở chúng ta đừng bỏ phí thời giờ. Nó chỉ cho chúng ta phải lớn lên và phải
trở nên như thế nào. Nó dạy cho chúng ta biết yêu thương nhau, và phải biết
dâng hiến chính mình ngay từ bây giờ... Dù chúng ta không hiểu gì về sự chết,
nhưng điều đó cũng chẳng cần thiết gì. Điều thiết yếu là phải sống bức thông điệp
mà sự chết nhắn gởi cho chúng ta”.
Thật vậy, suy gẫm về sự chết
là điều cần thiết, giúp ta biết quan tâm hơn đến cuộc sống: làm thế nào để yêu,
để tha thứ và để chấp nhận; làm thế nào để tránh những tội lỗi, những vấp phạm,
và chỉ còn muốn sống cho Chúa cách trọn vẹn để phụng sự Ngài và phục vụ tha
nhân; làm thế nào để khẳng định về chính mình như thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống
là Đức Kitô, và chết là một mối lợi”. Vì thế, “Không có gì tách được chúng ta
ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.”
(Rm 8, 39). Chỉ có chết trong tội mới tách rời chúng ta ra khỏi Chúa, còn chết
trong Chúa là một giải thoát, đưa chúng ta vào sự sống viên mãn của Ngài.
*************
Tận tình với sự chết, nhiệt
tình với sự sống
Theo tiếng Latinh, người chết
= defungi: là người đã vĩnh viễn hoàn tất đời mình. Là người Kitô hữu, chúng ta
phải biết đón nhận sự hoàn tất đó với một tâm hồn bình an cao cả, vì mạc khải
Kitô giáo đã cho biết rằng cái chết như cánh cổng to lớn mở vào Thánh Điện an
vui vĩnh hằng. Như thánh Phaolô đã xác định: vào ngày cuối cùng, cái hư hoại
trong ta sẽ trở nên bất hoại, cái khả tử sẽ nên bất tử (x. 1Cor 15, 53).
Chúng ta tin rằng Đức Kitô
đã chiến thắng sự dữ là cái chết, nhưng chúng ta cũng biết rằng, Ngài không chiến
thắng cái sự dữ gây ra ở trong ta. Nhờ Đức Kitô, trong hy vọng thì tất cả đã
thành đạt, nhưng trong thực tế, ta vẫn phải chịu đựng những bất hạnh. Niềm tin
và hy vọng không diệt nổi bản năng sinh tồn, nhưng nó đem lại một tâm tình đón
nhận bình thản và an vui: “Tôi chết vui cũng như đã sống vui”. Trong tâm tình
đó R. Tagore đã cất lên: “Ôi! Thần chết, ngươi làm cuộc đời tràn đầy lần cuối...
Những gì ta là, những gì ta có, những gì ta hoài mong, những gì ta yêu thương,
tất cả vẫn sâu xa bí mật trôi chảy về ngươi.
Chỉ một ánh nhìn từ mắt
ngươi lần cuối là đời ta vĩnh viễn thuộc về ngươi. Hoa đã kết thành tràng, sẵn
sàng chờ đợi tân lang. Sau tiệc cưới, giai nhân sẽ rời nhà. Một mình ra đi gặp
tân lang trong đêm tối quạnh hiu” [3].
Trong một đoạn thơ khác,
Tagore lại cảm nhận như sau:
“Ban mai, ngước mắt nhìn
ánh sáng, trong phút giây, tôi cảm thấy mình không phải khách lạ ở thế gian, và
Người xa lạ không tên gọi, không hình thù, với dáng dấp mẹ tôi hiền từ, đã
giang tay ôm tôi vào lòng.
Lúc lâm chung cũng vậy, Người
lạ mặt ấy lại hiện ra như đã từng quen thuộc với tôi từ lâu. Bởi yêu cuộc đời
nên tôi cũng yêu cả sự chết.
Khi mẹ giằng con ra khỏi bầu
vú bên này, con òa khóc, nhưng liền đó lại thấy nguồn an ủi ở bầu vú bên kia.
Ôi Thượng Đế, kính lạy Người lần cuối. Như đàn hạc hoài hương, ngày đêm hối hả
bay về tổ ấm trên núi cao, xin cho đời tôi phiêu du tới quê hương vĩnh cửu ngàn
thu” [4].
Quả thật, một cái nhìn đầy
lạc quan và hy vọng, một sự cảm nhận thâm sâu về thực tại vĩnh cửu ngay bên cạnh
giờ phút lâm chung: “Bởi yêu cuộc đời nên tôi cũng yêu cả sự chết”.
Chúng ta tin rằng: “Trong một
giây lát, trong một nháy mắt, khi tiếng kèn cuối cùng vang lên, những kẻ chết sẽ
trỗi dậy mà không còn hư nát; còn chúng ta, chúng ta sẽ được biến đổi” (1Cr
15,52). Tuy nhiên, phải tin trong sự chờ mong từ cơn đau quằn quại để sinh hạ
chính mình, cũng như toàn thể tạo vật đang rên siết để chờ ngày cứu độ (x. Rm
8, 22). Những đau khổ ở đời này chẳng là gì so với vinh quang sẽ dành cho ta
trong cõi vĩnh hằng (x. Rm 8, 18), và đó là một tiến trình tối cần để khai sinh
sự sống. Tiếp nhận cái chết như một điều tự nhiên nhất để làm nẩy sinh điều
siêu nhiên nhất: đó là sự phục sinh đời sống vốn đã được khắc họa trong ta qua
Phép Rửa: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai
táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền
năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới”(Rm
6,4). Dưới cái nhìn đó, người Kitô hữu được định nghĩa cách đơn giản là người
“tận tình với sự chết, nhiệt tình với sự sống” (Pierre Talec).
Chính vì thế mà không ai có
thể đón nhận cái chết thể lý trong niềm hy vọng phục sinh mà lại không cất cao
đầu và mở rộng con tim để vượt qua cái chết cho chính mình vốn đã hàm ngụ nơi
cuộc sống như thất bại, bị hiểu lầm, bị bỏ rơi, bị loại trừ và khinh thị... Hơn
nữa, cần phải giải phóng mình khỏi những gì biến mình thành tù nhân của chính
mình, ngõ hầu có thể yêu mến cuộc sống một cách thân thiết ngay bây giờ. Yêu mến
cuộc sống là điều không dễ dàng khi cuộc sống đầy bi đát, tàn bạo, xung khắc...
Khi đó người ta dễ nhìn vào những bất tất của đời thường như một cái gì phi lý,
vô nghĩa, không còn đáng sống. Nhưng nếu chết để mà chết thì chẳng bao giờ là
giải thoát.
Sự sống không đơn độc như
ta tưởng, vì sự sống đã kết hôn với sự chết. Chết và sống là cặp bài trùng của
cuộc hiện hữu nhân sinh. Cặp bài trùng này buộc ta phải thường xuyên chiến đấu
để đạt tới con người trưởng thành, con người mới trong Đức Kitô (x.Cl 4,12).
Con người mới không chỉ là con người nội tâm vươn tới chiều kích linh thánh, mà
cả con người bên ngoài, trong mọi quan hệ với xã hội. Phải biết nương tựa vào sự
soi sáng và sức mạnh của Thánh Linh để chống lại sức bành trướng của sự chết
đang ngự trị trong thế giới dưới nhiều hình thức.
*************
Kết luận
Khi sinh ra, con người là một
bản thể phải chết, nhưng khi chết thì con người sống mãi. Con người là bất diệt,
không chỉ vì linh hồn không thể bị phân hủy, nhưng vì chết là được mời gọi đến
sự hiệp thông trong tình yêu muôn đời với Chúa Ba Ngôi. Đó là ấn tích đã được
Thiên Chúa khắc sâu vào bản thể con người khi tạo dựng. Tính bất diệt của con
người đã có trong tự bản chất nhờ ơn cứu độ của Đức Kitô: “Ai tin vào Ta sẽ
không chết bao giờ ” (Ga11,26).
Như vậy, theo kế hoạch của
Thiên Chúa, cái chết của con người không mang tính chết chóc, nhưng là một định
hướng cho cuộc sống mới. Là người Kitô hữu, chúng ta “chết cho Chúa” cũng như
đã sống cho Ngài (x.Rm14,7). Nhờ cái chết, chúng ta “tôn vinh Thiên Chúa” (Ga
21, 19) để đáng hưởng triều thiên sự sống (x.Kh 2,10).Từ nỗi khắc khoải không
thể tránh được, sự chết trở nên một đối tượng của toàn phúc: “Phúc thay những kẻ
chết trong Chúa” (Kh 14, 13), vì nhờ đó Chúa đưa chúng ta đến nơi an nghỉ muôn
đời, đến miền ánh sáng vô tận.
Đó là lý do tại sao chết là
một mối lợi, vì Chúa Kitô chính là sự sống của chúng ta (x. Pl 1, 21). Trong niềm
vui lớn lao đó, thánh Têrêsa hài đồng đã xác quyết: “Tôi đâu có chết, tôi bước
vào sự sống”. Đức Giêsu đã trả lại cho cái chết sự vô tội của vườn địa đàng cho
những ai tin vào Ngài. Đó là cánh cửa đưa tới hạnh phúc ngàn thu cho chúng ta
là những con cái của Thiên Chúa.
*************
Lạy Cha là Thiên Chúa, Đấng
tác tạo con người và mọi loài, và là sự sống muôn đời của con! Con hạnh phúc biết
bao vì được kêu gọi nhận biết, tin tưởng, và sống thuộc về Chúa. Dù biết mình
phải chết, nhưng chết trong sự nhận biết, tin tưởng và yêu mến Chúa, thì cái chết
lại là cơ hội diễm phúc để con được sống với Chúa mãi mãi, là Đấng con hằng
khao khát khôn nguôi.
Để đón nhận cái chết cuối
cùng trong niềm hân hoan, con biết mình cần phải đón nhận cái chết từng ngày
con người cũ của mình, để học biết sống con người mới trong Đức Kitô, Con Cha,
là Đấng đã chết và sống lại vì con.
Đức Kitô là hy vọng duy nhất
của đời con trên con đường về nhà Cha. Ngài đang ở với con, sâu thẳm trong lòng
con, thân thiết hơn chính bản thân con, và đang dùng Thánh Thần của Ngài để biến
đổi đời con.
Ôi! Lạ lùng quá, tình yêu
bao la vô cùng của Chúa trên cuộc đời đầy hư nát của con. Con chẳng có gì đánh
đổi trước mầu nhiệm ân sủng lớn lao này, chỉ biết ca ngợi lòng thương xót của
Chúa trong từng giây phút đời con. Con chỉ biết chìm sâu trong Chúa mỗi ngày, để
được thanh tẩy mọi bợn nhơ và loang lỗ trong tâm hồn. Xin dẫn bước nhân loại
chúng con về miền ánh sáng vô tận, nơi Chúa ngự trị và vinh hiển muôn đời. Amen.
Lm. Thái Nguyên