Do Thái giáo có trước
Kitô giáo và Hồi giáo, chúng ta không thể xác định nước Hồi giáo nào có số tín
đồ nhiều nhất thế giới. Đây là 10 điểm tương đồng giữa Do Thái giáo và Hồi
giáo:
1. Tôn thờ cùng một
Thiên Chúa
Các khoảng trống như vậy
trong kiến thức phổ thông (hoặc căn bản) về tôn giáo chỉ là dấu hiệu của sự xa
lạ sâu xa và thông thường, với một số đặc điểm căn bản nhất giữa Do Thái giáo
và Hồi giáo (nghĩa là không có gì là không quen với các điều căn bản của các
tôn giáo lớn nổi trội trên thế giới, như Ấn giáo hoặc Phật giáo). Nhiều người
có thể rất ngạc nhiên khi biết rằng Do Thái giáo và Hồi giáo thực sự có nền tảng
chung. Chắc chắn rất nhiều sinh viên học các khóa về tôn giáo cộng đồng mỗi học
kỳ cảm thấy ngạc nhiên khi biết có nhiều điều giống nhau và song song với nhau
giữa các tín đồ Do Thái giáo và Hồi giáo.
Cả Do Thái giáo và Hồi
giáo đều là độc thần giáo, đạo chỉ thờ một thần, đó là Thiên Chúa. Nhiều người
hiểu rằng các tín đồ Do Thái giáo và các Kitô hữu cùng tôn thờ một Chúa. Tuy
nhiên, có thể họ không biết rằng các tín đồ Hồi giáo cũng tôn thờ một Chúa như
họ.
Đức Allah không là tên
riêng như một số thần linh khác (Odin, Thor, Zeus, Apollo, Vishnu, hoặc Shiva).
Tên Allah không xác định riêng biệt, xa lạ, hoặc vị thần Ả Rập duy nhất. Theo
nghĩa đen, Allah chỉ là từ ngữ Ả Rập có nghĩa là “Chúa”. Các Kitô hữu Ả Rập diễn
tả Thiên Chúa là “Allah”, họ không có từ ngữ nào khác để diễn tả Thiên Chúa.
Kinh Koran (Quran, Qu’ran) là sách thánh của Hồi giáo nói về Ađam, Nô-ê,
Áp-ra-ham, Mô-sê, Đa-vít, Sa-lô-môn, Chúa Giêsu, và các nhân vật khác. Khi làm
vậy, chính Kinh Thánh Hồi giáo xác định Chúa của Muhammad, Chúa của Đức Giêsu,
và Chúa của Ít-ra-en đều là MỘT Thiên Chúa. Thiên Chúa của Hồi giáo cũng là
Thiên Chúa của Do Thái Giáo và Kitô giáo, Allah cũng chính là Thiên Chúa của
Áp-ra-ham, I-sa-ác, và Gia-cóp.
Do Thái giáo, Kitô
giáo và Hồi giáo được coi là các tôn giáo truyền thống Áp-ra-ham, thế nên cả ba
tôn giáo có chung nguồn gốc, bắt nguồn từ Tổ phụ Áp-ra-ham. Hồi giáo được
Muhammad thiết lập tại Ả Rập hồi thế kỷ thứ 7 sau công nguyên, cả người Do Thái
và Ả Rập đều được gọi là “người Sê-mít” (Semitic), là dòng dõi của Shem, con
trai ông Nô-ê.
2. Không tin Chúa
Giêsu như Kitô giáo
Kitô giáo là tôn giáo
độc thần theo truyền thống Áp-ra-ham, cùng tin một Thiên Chúa tối cao và là anh
em với nhau. Tuy nhiên, niềm tin Kitô giáo cũng duy trì đặc tính tôn giáo duy
nhất về Đức Giêsu Kitô, điều này đưa ra một điểm tương đồng khác giữa Do Thái
giáo và Hồi giáo: Không chấp nhận niềm tin Kitô giáo về Chúa Giêsu. Niềm tin
Kitô giáo như vậy tin nhận thần tính của Chúa Giêsu, sự sống lại của Chúa
Giêsu, vai trò duy nhất và cương vị của Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu
độ, các tín đồ Do Thái giáo và Hồi giáo không chỉ coi đó là sai lầm mà còn là
phỉ báng.
Kitô giáo tin rằng
chính Ngôi Hai Thiên Chúa (Đức Giêsu Kitô) hóa thân làm người. Do Thái giáo và
Hồi giáo coi đó là vô lý (họ cho rằng Thiên Chúa không mặc xác phàm), là tôn
sùng ngẫu tượng (vì đặt con người ngang hàng với Thiên Chúa, giống như Thiên
Chúa).
Từ viễn cảnh của Do
Thái giáo và Hồi giáo, việc tin Chúa Giêsu như vậy là mâu thuẫn với thuyết độc
thần mà cả Do Thái giáo và Hồi giáo đều cương quyết không nhượng bộ về đức tin.
Đối với Do Thái giáo và Hồi giáo, Thiên Chúa là Một Ngôi duy nhất, chứ không là
Ba Ngôi.
Họ cho rằng Kitô giáo
tin Chúa Ba Ngôi (Tam Vị Nhất Thể, Trinity) là không thể chấp nhận. Hồi giáo
coi Chúa Giêsu chỉ là một ngôn sứ vĩ đại chứ không là gì hơn. Do Thái giáo có
cái nhìn mơ hồ hơn về vấn đề này, họ coi Chúa Giêsu là vị cứu tinh thất bại, hoặc
là một tiên tri giả.
Đối với Do Thái giáo
và Hồi giáo, Chúa Giêsu không là Đấng cứu độ, không là thần linh, không sống lại,
không là Thiên Chúa nhập thể hoặc là Con Thiên Chúa theo bất kỳ nghĩa nào. Cả
Do Thái giáo và Hồi giáo đều đồng ý như vậy.
3. Tin có các Thiên Thần
Nhãn quan tôn giáo của
Do Thái giáo và Hồi giáo đều có vị trí cho những vị không là phàm nhân, thường
được đề cập là các “thiên thần”, các thụ tạo siêu nhiên được Thiên Chúa dựng
nên để làm sứ giả của Ngài.
Cả sách Tanakh (Kinh
Thánh Do Thái) và sách Talmud (văn chương giáo sĩ Do Thái) đầy các vấn đề liên
quan cá hoạt động của các thiên thần, kể cả các Tổng lãnh Thiên thần Gáp-ri-en,
Mi-ca-e, và các thiên thần vô danh khác. Cũng vậy, Kinh Koran nói về các thiên
thần là các sứ giả của Thiên Chúa, kể cả Mikail (Mi-ca-e), Israfil (Ra-pha-e),
và các thiên thần khác. Thật vậy, chính thiên thần Jibril (Gáp-ri-en) đã mặc khải
kinh Koran cho Muhammad. Có điểm tương tự khác giữa Do Thái giáo và Hồi giáo là
sự cảnh báo nghiêm túc về việc coi các thiên thần là các đối tượng để tôn thờ,
hoặc coi các thiên thần là Thiên Chúa. Làm vậy là phạm tội thờ ngẫu tượng.
4. Tin lời các tiên
tri và sự mặc khải
Do Thái giáo và Hồi
giáo đều tin rằng Thiên Chúa giao tiếp trực tiếp với loài người qua các ngôn sứ,
hoặc những người được Thiên Chúa tuyển chọn làm “phát ngôn viên” để làm “nhịp cầu”
giữa Thiên Chúa với cộng đồng. Ngược với cách dùng thông thường, thuật ngữ
“ngôn sứ” không nói tới người dự đoán tương lai, mà chỉ có nghĩa là “người nói
thay Thiên Chúa”.
Đối với Do Thái giáo,
Mô-sê là ngôn sứ “cao cấp”, vì qua Mô-sê mà Thiên Chúa mặc khải các điều răn và
giáo huấn, nền tảng của giao ước được Thiên Chúa thiết lập với dân Ít-ra-en
trên Núi Sinai. Năm cuốn sách đầu tiên của Cựu ước gồm điều này, gọi là “Ngũ
Kinh” (năm sách của Mô-sê, Torah). Phần thứ hai (hoặc phần giữa) gọi là Nevi’im
(ngôn sứ), gồm các sách của các ngôn sứ trong lịch sử sau đó của dân Ít-ra-en
như Ê-li-a, Ê-li-sa, Ê-dê-ki-en, I-sai-a, và các ngôn sứ khác.
Đối với Hồi giáo,
Muhammad là ngôn sứ được Thiên Chúa mặc khải kinh Koran (đọc, kể), sách thánh
mà các tín đồ Hồi giáo tôn kính là Lời Chúa và là mặc khải cuối cùng truyền lại
cho nhân loại. Do đó, ngôn sứ Muhammad được người Hồi giáo coi là tiên tri cuối
cùng làm phát ngôn viên của Chúa nói với nhân loại.
Hồi giáo chân nhận
tính thực tế và giá trị của các mặc khải trước mà Thiên Chúa nói với các dân tộc
ngày xưa. Kinh Koran chân nhận Ađam, Nô-ê, Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp, Mô-sê,
Đa-vít, Sa-lô-môn, Ê-li-a, Ê-li-sa, Ê-dê-ki-en, Đức Giêsu, và các nhân vật khác
(kể cả các nhân vật không có trong Kinh Thánh) là các ngôn sứ đích thực mà
Thiên Chúa nói với họ, ngay cả với Muhammad là người cuối cùng được thêm vào
danh sách này, sau khi các lời tiên tri và mặc khải được khép lại.
Dĩ nhiên, họ có những
điểm chung về mặc khải và tiên tri, nhưng vẫn có các điểm dị biệt quan trọng giữa
ba tôn giáo theo truyền thống Áp-ra-ham. Hồi giáo chấp nhận tính hợp pháp của
các mặc khải trước như vậy vì có cả trong Kinh Thánh của Do Thái giáo và Kitô
giáo, các Kinh Thánh này bị “biến dạng” theo thời gian, cả Ngũ Kinh và Phúc Âm,
cho tới chúng ta ngày nay, không còn phản ánh chính xác bản văn gốc của các mặc
khải. Điều này nghĩa là Kinh Thánh của Do Thái giáo và Kitô giáo không còn
nguyên bản, Do Thái giáo và Kitô giáo dựa trên Kinh Thánh đó, các tôn giáo bối
rối với các sai lỗi.
Theo quan điểm Hồi
giáo, việc mặc khải kinh Koran là để sửa các sai lỗi đó và sự sai lệch có trong
Kinh Thánh cổ – chẳng hạn, không công nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhập thể,
Con Thiên Chúa, hoặc Đấng cứu độ phục sinh. Hồi giáo tin Đức Giêsu là một ngôn
sứ vĩ đại hoặc sứ giả của Thiên Chúa, chứ không là Thiên Chúa hoặc thần linh.
Dĩ nhiên, Do Thái giáo
hoàn toàn đồng ý với Hồi giáo rằng Đức Giêsu không là Đấng cứu độ hoặc Thiên
Chúa nhập thể. Mặt khác, Do Thái giáo không đồng ý với Hồi giáo về việc tin
Muhammad là ngôn sứ thật, hoặc kinh Koran là mặc khải thật. Do Thái giáo không
đồng ý khi Hồi giáo nói rằng kinh Koran không thể sai lầm và để “sửa” các lỗi
có trong Kinh Thánh của Do Thái giáo. Vì thế, chắc chắn vẫn có vấn đề quan trọng,
ngay cả các vấn đề thần học không thể tranh luận mà người Do Thái giáo và Hồi
giáo “không thống nhất”.
Về nền tảng, cả Do
Thái giáo và Hồi giáo đều tin một Thiên Chúa (cùng một Thiên Chúa), Đấng mặc khải
chính Ngài cho nhân loại bằng cách nói với họ qua các ngôn sứ. Được Thiên Chúa
chọn làm “phát ngôn viên” của Ngài, các ngôn sứ đã nói nhiều sứ điệp của Thiên
Chúa đối với cộng đồng.
5. Tin có sự sống lại,
ngày phán xét, Thiên đàng và Hỏa ngục
Các Kitô hữu cũng tin
như vậy, và có sự tương đồng với cả ba tôn giáo theo truyền thống Áp-ra-ham.
Các chi tiết đặc biệt có thể khác nhau trong mỗi tôn giáo hoặc giáo phái. Do
Thái giáo, Kitô giáo, và Hồi giáo tin khác nhau một chút về những điều liên
quan tư tưởng tôn giáo về sự sống đời sau và thận thế. Các tư tưởng được chấp
nhận mới đầu được phát triển trong Do Thái giáo, rồi cả Kitô giáo và Hồi giáo đều
thừa hưởng, tin rằng sẽ có ngày Thiên Chúa cho kẻ chết sống lại, và có cuộc
phán xét các linh hồn. Những người công chính sẽ được hưởng phúc trường sinh
trên Thiên đàng, còn những người không công chính sẽ bị phạt đời đời trong Hỏa
ngục.
Có những cách hiểu
khác nhau trong ba tôn giáo chính của người Sê-mít (không kể các nhóm phân chia
của họ). Nhưng phần cốt lõi giữ vai trò quan trọng trong các dạng thần học
riêng. Niềm tin về “những điều cuối cùng” cũng làm cho ba tôn giáo theo truyền
thống Áp-ra-ham khác với các tôn giáo lớn trên thế giới, có thể duy trì niềm
tin nền tảng và khác nhau về sự sống đời đời, hoặc số phận cuối cùng của con
người (chẳng hạn, Ấn giáo, Phật giáo, và đạo Sikh tin có sự tái sinh).
6. Coi Giêrusalem là
thành Thánh
Dĩ nhiên Kitô giáo
cũng coi Giêrusalem là thành thánh. Khó có thể nói tầm quan trọng chính đối với
Do Thái giáo về thánh thánh Giêrusalem. Thủ đô của Ít-ra-en ngày nay, một trong
các thành phố cổ xưa nhất thế giới, là Giêrusalem. Thành phố này đã được vua
Đa-vít xây dựng gần 3000 năm trước (khoảng năm 1000 trước công nguyên).
Vua Sa-lô-môn, con vua
Đa-vít, đã xây dựng đền thờ đầu tiên tại đó, làm cho Giêrusalem là trung tâm
tôn giáo của Do Thái, mặc dù Đền thờ này đã bị phá hủy hai lần (lần đầu bị người
Babylon phá vào năm 586 trước công nguyên, được tái xạy dựng rồi lại bị người
Rôma phá hủy vào năm 70 sau công nguyên).
Ngày nay, Đền thờ
Giêrusalem vẫn là nơi lịch sử tôn giáo có ý nghĩa đối với Do Thái giáo. Đền thờ
Núi (nơi nguyên thủy của cả hai Đền thờ), với bức tường phía Tây nổi tiếng, gọi
là “Bức tường Khóc than” (di tích cũ), hàng năm có hàng ngàn du khách đến cầu
nguyện, người Do Thái coi đây là nơi thánh nhất thế gian này.
Thành phố Mecca ở Ả Rập
Saudi là nơi sinh của ngôn sứ Muhammad, cũng là nơi nổi tiếng gọi là Hajj (chạy
trốn, di trú) để hành hương tới Mecca (một trong năm “cột trụ” của Hồi giáo, mọi
tín đồ Hồi giáo đều phải hành hương tới Mecca ít nhất một lần trong đời). Đối với
các tín đồ Hồi giáo, Mecca là thành thánh. Gần đó có thành phố Medina, nơi có mộ
của Muhammad và nơi trú ẩn mà Muhammad cùng các bạn đã trốn khi bị bách hại ở
Mecca. Do đó, Medina được coi là thánh địa thứ nhì của Hồi giáo.
Đối với Hồi giáo,
thành Giêrusalem là nơi thánh. Thật vậy, đó là nơi thánh thứ ba của Hồi giáo,
sau Mecca và Medina. Hồi giáo chấp nhận sự mặc khải của Thiên Chúa đối với các
ngôn sứ trong lịch sử, kể cả lịch sử theo Kinh Thánh, và Giêrusalem được coi là
thành thánh đối với các ngôn sứ thời kỳ đầu.
Thành Giêrusalem cũng
nổi bật trong câu chuyện về cuộc hành trình đêm và việc bay lên của Muhammad, Tổng
lãnh Thiên thần Jibril (Gáp-ri-en) đã đưa Muhammad từ Mecca tới Giêrusalem (để
cầu nguyện), rồi lại đưa ông từ Giêrusalem lên trời (để gặp gỡ và đối thoại với
các tiên tri thời trước), chuyện xảy ra chỉ trong một đêm. Giêrusalem cũng là
qibla (phương hướng) đầu tiên mà các tín đồ Hồi giáo được dạy trong khi cầu
nguyện, tới mặc khải sau đó được Muhammad thuật lại cách đổi hướng để người Hồi
giáo từ Giêrusalem tới Mecca. Ngày nay, Đền thờ Núi tại Giêrusalem là nơi thánh
có Bức tường Than khóc phía Tây – di tích còn lại duy nhất của Đền thờ thứ nhì
cùa Do Thái giáo – nhưng cũng là Đền thờ al-Aqsa của Hồi giáo, kể cả Mái vòm của
Đền thờ Đá.
Đá này là Đá Tảng của
Đền thờ mà người Do Thái tin là nơi thánh của Đền thờ, nơi cực thánh của Do
Thái giáo. Hồi giáo tin Mái Vòm Đá tại Giêrusalem là nơi Muhammad đã được “di
chuyển” trong đêm kỳ diệu. Đền thờ al-Aqsa gần đó là nơi cực thánh thứ ba để
người Hồi giáo cầu nguyện, sau Đền thờ Vĩ đại tại Mecca (nơi hành hương) và Đền
thờ Tiên tri tại Medina (có mộ Muhammad).
7. Nam giới phải cắt
bì
Trong Kinh Thánh,
Áp-ra-ham được Thiên Chúa truyền lệnh cắt bì, dấu chỉ giao ước thánh được thiết
lập. Yêu cầu này được truyền cho con cháu nam giới của Áp-ra-ham. Nam giới Hồi
giáo cũng giữ luật này một thời gian dài. Theo “Ngũ Kinh” (năm cuốn dầu của Cựu
ước), các trẻ nam Do Thái được cắt bì vào ngày thứ tám kể từ lúc sinh. Dịp này
gọi là bris (tức là “giao ước cắt bì”), có cử hành nghi lễ tôn giáo. Việc này
được làm bởi một chuyên gia Do Thái, gọi là mohel (người cắt bì), sau đó có một
bữa ăn.
Kinh Koran không đòi
buộc cắt bì, nhưng việc cắt bì cho nam giới vẫn được kể đến trong bộ sựu tập
hadith (do Muhammad biên soạn, các tín đồ Hồi giáo coi đó là bản hướng dẫn đáng
tin cậy để hiểu và xử sự). Chính Muhammad cũng được cắt bì, kể cả các tiên tri
trước cho tới Áp-ra-ham. Cắt bì nam giới (gọi là khitan hoặc tahara) là tiêu
chuẩn trong Hồi giáo từ những ngày đầu. Đa số các tín đồ Hồi giáo coi đó là
nghi thức bắt buộc, ngay cả những người không áp dụng cũng coi đó là việc xứng
đáng và rất nên giữ.
8. Cầu nguyện nhiều lần
trong ngày
Dĩ nhiên, người ta có
thể cầu nguyện bất cứ lúc nào, bao nhiêu lần cũng được. Nhưng trong Do Thái
giáo và Hồi giáo, số lần cầu nguyện chính thức được ấn định mỗi ngày: Năm lần –
sáng sớm, trưa, chiều, tối, và đêm. Việc cầu nguyện là một trong Năm Cột Trụ của
Hồi giáo, bắt buộc đối với mọi tín đồ Hồi giáo. Khi cầu nguyện, họ phải tìm nơi
thích hợp (nếu có nhà thờ thì tốt nhất, nhưng không cần thiết). Năm lần cầu
nguyện trong ngày là việc bắt buộc, nếu ai bỏ vì lý do gì thì phải cầu nguyện
bù vào. Khi cầu nguyện, các tín đồ Hồi giáo phải quay mặt hướng về thánh địa
Mecca (ở Ả Rập Saudi), và cầu nguyện theo nghi thức. Ngôn ngữ chính là tiếng Ả
Rập, ngôn ngữ của kinh Koran.
Cũng vậy, người Do
Thái cũng ấn định số lần cầu nguyện trong ngày – sáng, chiều, và tối. Cả Do
Thái giáo chính thống và Do Thái giáo bảo thủ đều bắt buộc cầu nguyện mỗi ngày
ba lần, còn Do Thái giáo cải cách và Do Thái giáo kiến thiết lại không bắt buộc,
cho phép tùy ý mỗi cá nhân.
9. Giữ luật ăn uống
Người ta đa số đều
không biết rằng các tín đồ Do Thái giáo giữ “luật kosher”, nghĩa là họ chỉ ăn
thực phẩm “kosher”. Chẳng hạn, phải tránh thịt hèo vì thịt heo không là “thực
phẩm kosher”. Tương tự, các tín đồ Hồi giáo cũng chỉ ăn các thực phẩm “halal”
(được phép), và tránh các thực phẩm “haram” (cấm).
Tại Hoa Kỳ, những nơi
có nhiều người theo Do Thái giáo và Hồi giáo, người ta thường ghi ở các cửa
hàng: Thịt kosher hoặc tạp hóa halal. Chữ kosher nghĩa là “đúng luật”. Luật Do
Thái giáo rút ra từ “Ngũ Kinh”, cho biết loại thực phẩm nào là “đúng luật”.
Trong thực tế, điều này có thể khá phức tạp, nhưng những người giữ luật Do Thái
giáo phải giữ – gọi là luật kashrut (đúng, riêng) – được liệt kê trong “Ngũ
Kinh”. Các thực phẩm cấm như thịt heo và hải sản (cua, tôm, sò, ốc,…) vì chúng
“không tinh sạch”.
Các loại thực phẩm
khác phải được chuẩn bị theo “đúng nghi thức”. Chẳng hạn, các loại máu phải rút
ra khỏi thịt trước khi nấu hoặc ăn (loại thịt “kosher” bảo đảm quá trình này),
thịt và sữa không được trộn hoặc ăn chung với nhau (loại hamburger thì không
sao, nhưng thịt băm có phô-mai thì không là thực phẩm “kosher”).
Nhiều gia đình Do Thái
có các loại dụng cụ riêng (dao, bình, hũ, nồi, soong, chảo,…), đôi khi dành
riêng biệt cả bồn rửa và tử lạnh, làm vậy để bảo đảm không phạm luật. Tuy
nhiên, những người theo Do Thái giáo chính thống không giữ nghiêm ngặt như vậy,
nhiều người theo Do Thái giáo cải cách vẫn giữ đúng nghiêm luật.
Hồi giáo cũng có một số
luật về ăn uốgn. Kinh Koran cấm ăn thịt heo và uống rượu (kể cả các chất có
men). Luật Hồi giáo rút ra các hướng dẫn từ kinh Koran, phân biệt các dạng thực
phẩm “halal” và “haram”. Rượu, thịt heo, máu, động vật giết mổ không đúng cách,
và một số thực phẩm được phân loại là “haram” hoặc không được phép. Có những điểm
tương đồng và dị biệt giữa các thực phẩm “kosher” và “halal”. Chẳng hạn, cả những
người Do Thái giáo và Hồi giáo đều không được ăn thịt heo. Mặt khác, người Do
Thái giáo không được ăn hải sản, nhưng đa số người Hồi giáo lại được ăn (tùy
giáo phái). Ngược lại, người Hồi giáo không được uống rượu, nhưng người Do Thái
giáo lại có thể uống rượu.
10. Tách riêng nam với
nữ khi thờ phượng
Trong Do Thái giáo, việc
ngồi riêng như vậy còn tùy giáo phái. Tại các nhà thờ Do Thái giáo chính thống,
nam giới và nữ giới Do Thái có chỗ riêng biệt (phụ nữ thường ở trên lầu), tại
các nhà thờ Do Thái giáo cải cách thí không phân biệt nam nữ.
Trong Hồi giáo, luôn
có sự phân biệt giới tính trong khi cầu nguyện, nhưng tục lệ đặc biệt này thay
đổi tùy văn hóa và tùy nơi. Thường chỉ có nam giới cầu nguyện tại các đền thờ,
còn phụ nữ cầu nguyện ở nhà. Có nơi phụ nữ có thể cầu nguyện ở đền thờ, nhưng
thường ở phòng cầu nguyện phía sau (khác chỗ với nam giới) hoặc ở một nơi riêng
khác, đôi khi là nơi khuất, hoặc ở trên lầu.
Dĩ nhiên có những điểm
tương đồng giữa Do Thái giáo và Hồi giáo có thể ngoài danh sách này. Đối với cả
hai tôn giáo, một ngày bắt đầu từ lúc mặt trời lặn, chứ không là nửa đêm hoặc rạng
đông. Mỗi tôn giáo có âm lịch riêng, khác hẳn với dương lịch tiêu chuẩn theo
Tây phương hoặc lịch Grê-gô-ri-an. Để tỏ lòng sùng đạo, đàn ông Do Thái giáo và
Hồi giáo thường đội mũ chỏm, gọi là “yarmulkes” (tiếng Yiddish) hoặc “kippahs”
(tiếng Do Thái), còn đàn ông Hồi giáo thường dùng “mũ cầu nguyện”, gọi là
“kufi” hoặc “taqiyah”. Có thể hai tôn giáo này không khác nhau về những điểm cơ
bản.