Sống
giữa ngã ba cuộc đời đa dạng, con người luôn phải
tranh đấu, phải luồn lách, phải nhận định và phải
chọn lựa một lối đi đúng đắn để mong đạt tới
được mục đích mong đợi sau cùng.
Các
cảnh báo của Kinh Thánh
Trong
nhiều chỗ khác nhau trong phần Kinh Thánh Tân Ước, toàn
thể nhân loại chúng ta đã được cảnh giác một cách
nghiêm trọng là cần phải tỉnh táo phân biệt, cần phải
xem xét các thần khí, chứ không nên nhẹ dạ vội vàng
nghe theo ngay.
Thật
vậy, để giúp chúng ta phân biệt được rõ ràng đâu là
Thần Khí Thiên Chúa và đâu là thần khí nguy hại, thánh
Phaolô đã nêu rõ trong Thư của ngài gửi giáo đoàn
Ga-lát đích danh các hoa quả tích cực của Thần Khí
Thiên Chúa cần thiết cho sự hạnh phúc chân thật của
con người và hoa quả tiêu cực của thần khí nguy hại
chỉ đưa con người vào ngõ bí bất hạnh không lối
thoát (x. Gl 5,16-24).Còn trong Thư I của ngài, thánh Gioan
Tông Đồ lại thẳng thắn cảnh giác các tín hữu: "Anh
em thân mến, anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng
hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa
hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp
thế gian.“ (1Ga 4,1tt). Và chính Chúa Giêsu cũng đã nhắc
nhủ các Môn Đệ phải luôn cẩn thận trước các ngôn
sứ giả, những người không mang trong mình Thần Khí
Thiên Chúa, nhưng là thần khí của tên Phản-Kitô, nên
đừng nghe theo những gì họ nói, nhưng hãy tỉnh táo nhìn
hoa quả của các việc họ làm, thì sẽ biết ngay họ là
ai và họ thuộc thành phần nào (x. Mt 7,15-23).
Vấn
đề này cũng từng đã được đề cập tới trong phần
Kinh Thánh Cựu Ước. Trong phần này, người ta đã ghi
nhận được rằng, các vị ngôn sứ chân chính của Thiên
Chúa đã từng phải đối mặt với bọn ngôn sứ giả,
một bọn người đông đảo chỉ luôn truyền bá sự dối
trá và lừa bịp, hòng mong mua chuộc và lôi cuốn được
những người nhẹ dạ cả tin. Đó là trường hợp ngôn
sứ Elija đã phải can trường chống lại 450 ngôn sứ giả
của thần Baal; ngôn sứ Micha Ben Jimla đã phải đối mặt
với 400 ngôn sứ giả khác (x. 1 V, 22) và cả ngôn sứ
Giê-rê-mi-a cũng đã một mình chống lại ngôn sứ giả
Kha-nan-gia, một người đã tự nhận là ngôn sứ và đã
dùng những lời ngon ngọt, bùi tai và mị dân để lừa
bịp dân Ít-ra-el (x Gr 28).
Điều
đó muốn nói rằng, vấn đề này không phải là một
hiện tượng mới lạ trong xã hội loài người, nhưng
đồng thời nó vẫn luôn mang tính cách thời sự và vì
thế có liên quan đến chúng ta. Bởi vậy, nhiều người
đã phải tự hỏi: Khi nghe một người nào đó, nhất là
một người có danh giá trong xã hội hay một vĩ nhân,
phát biểu hay trình bày một vấn đề quan trọng nào đó,
thì làm sao có thể phân biệt được lời phát biểu của
người ấy là do thiện ý đã được Thần Khí Thiên Chúa
soi sáng hướng dẫn, hay chỉ là ý kiến phóng đại vô
căn cứ của cá nhân người ấy, hay còn tồi tệ hơn nữa
là để đánh lừa người nghe với một hậu ý ích kỷ
nào đó? Khi nào người ta có thể tin tưởng một người
nào đó, hay nói đúng hơn, người ta phải để ý quan sát
những dấu chỉ cảnh báo nào? Và sau cùng, ai có thể
phân biệt được giữa thật và giả, sai và đúng một
cách chắc chắn?
Sự
phân biệt cần thiết giữa thật-hư và đúng-sai không
chỉ dựa trên sự kiểm tra của những đặc sủng
(Charismen) mà Thiên Chúa đã ban riêng cho Giáo Hội –tức
những khả năng nổi trội do Thần Khí Chúa tác động –
ngõ hầu Giáo Hội chu toàn quyền giáo huấn của mình
trong lãnh vực đức tin và luân lý hoàn toàn phù hợp với
chân lý của Đức Kitô(*), nhưng cả trên sự phán đoán
và đánh giá đúng đắn của mỗi người về những sự
kiện xảy ra trong đời sống của chính mình. Dĩ nhiên
trong thực tế, cả hai lãnh vực ấy không hoàn toàn tách
biệt nhau một cách rõ ràng.
Lãnh vực thứ nhất có liên
quan tới sự đòi hỏi chắc chắn về chân lý của Giáo
Hội giáo huấn. Ví dụ: đứng trước những sự kiện
xảy ra (kể cả những mạc khải tư) câu hỏi đầu tiên
bao giờ cũng được đặt ra là liệu những sự kiện ấy
có hội đủ tính chất xác thực khách quan hay không.
Lãnh vực thứ hai liên quan trực tiếp tới sự phán đoán về điều cần thiết phải có trong đời sống tâm linh. Ví dụ: làm sao tôi có thể phân biệt được đâu là những suy tư đúng đắn và đâu chỉ là những ảo tưởng hay những tư tưởng nguy hiểm, trong chính mình tôi hay nơi những người khác, trong trường hợp có sự giúp đỡ tinh thần của một ai đó?
Lãnh vực thứ hai liên quan trực tiếp tới sự phán đoán về điều cần thiết phải có trong đời sống tâm linh. Ví dụ: làm sao tôi có thể phân biệt được đâu là những suy tư đúng đắn và đâu chỉ là những ảo tưởng hay những tư tưởng nguy hiểm, trong chính mình tôi hay nơi những người khác, trong trường hợp có sự giúp đỡ tinh thần của một ai đó?
Trong
những trường hợp này còn phải kể đến các yếu tố
khác nữa, chẳng hạn cần phải xác định rõ ràng giới
hạn các khả năng cá nhân: Những dấu chỉ nào có thể
hoà hợp với khả năng cảm hứng hay dự định của
mình? Nhưng cả trong cuộc sống hằng ngày: Những cảm
xúc, những cảm nhận và những hứng cảm trong khi cầu
nguyện có ý nghĩa gì không? Và người ta có thể tự lừa
dối mình vì những điều ấy không?
Để nhận chân được vấn đề này, chúng ta có thể đưa ra một ví dụ cụ thể, chẳng hạn một người nào đó mặc dù đã hết lòng ăn năn hối cải các tội lỗi của mình và đã lãnh nhận Bí tích Giao Hòa một cách thành sự, nhưng vẫn cảm thấy lòng mình còn áy náy, chưa được bằng an, thì trong trường hợp này đương sự không được phép hồ nghi về tính cách thành sự hay sự hiệu nghiệm của Bí tích Giao Hòa mà người ấy đã lãnh nhận, nếu không, người ấy đã coi trọng và đặt cảm xúc thuần túy chủ quan của mình lên trên đức tin Kitô giáo. Cảm xúc hay cảm nhận trong mỗi người là điều cần thiết để cân bằng các sinh hoạt tâm lý của người ấy và làm cho cuộc sống người ấy tăng phần hưng phấn, nhưng chúng không phải là tiêu chuẩn chính để phê phán và nhận định một người hay một sự việc một cách chắc chắn được. Chính lý trí mới là tác nhân các phán đoán của con người.
Để nhận chân được vấn đề này, chúng ta có thể đưa ra một ví dụ cụ thể, chẳng hạn một người nào đó mặc dù đã hết lòng ăn năn hối cải các tội lỗi của mình và đã lãnh nhận Bí tích Giao Hòa một cách thành sự, nhưng vẫn cảm thấy lòng mình còn áy náy, chưa được bằng an, thì trong trường hợp này đương sự không được phép hồ nghi về tính cách thành sự hay sự hiệu nghiệm của Bí tích Giao Hòa mà người ấy đã lãnh nhận, nếu không, người ấy đã coi trọng và đặt cảm xúc thuần túy chủ quan của mình lên trên đức tin Kitô giáo. Cảm xúc hay cảm nhận trong mỗi người là điều cần thiết để cân bằng các sinh hoạt tâm lý của người ấy và làm cho cuộc sống người ấy tăng phần hưng phấn, nhưng chúng không phải là tiêu chuẩn chính để phê phán và nhận định một người hay một sự việc một cách chắc chắn được. Chính lý trí mới là tác nhân các phán đoán của con người.
Ngay
từ thời Giáo Hội sơ khai, các vấn đề này cũng đã
được đặt ra; và vào thời hậu trung cổ các vị Tổ
phụ các Dòng Tu và các nhà thần học đã đặc biệt
phân tích chúng với một sự hiểu biết và nhận thức
thần học rất đúng đắn. Chẳng hạn thánh Bernardin
thành Siena đã tìm cách biện giải vấn nạn gai
góc này, khi ngài đã tự hỏi mình về những cảm nghĩ
trong lòng: Tại sao và cho ai khi tôi muốn thực hiện điều
này điều nọ? Dự định ấy có phù hợp với các khả
năng thể lý và tinh thần của tôi không? Mỗi người đều
đã biết rất rõ rằng, thần khí của chính mình có thể
đánh lừa họ, ví dụ: Khi một người bỗng cảm thấy
lòng mình cháy bỏng – một trường hợp mà người ta
thường sử dụng cụm từ “một sức mạnh vô hình”
thúc đẩy – mong ước theo đuổi và tìm cách đạt tới
những trải nghiệm thiêng liêng bằng mọi giá, nhưng theo
tâm lý học thì hiện tượng ấy có thể mới chỉ là
một sự ép buộc các cảm xúc của mình mà thôi, tức
mới chỉ là sự tác động và thôi thúc của “thần
khí” đương sự.
Để
đánh giá đúng đắn sự khả tín của một người, và
dù đã dựa trên các tiêu chuẩn của Kinh Thánh, thì người
ta cũng không được phép vội quả quyết là người ấy
hoàn toàn đúng hay sai trong các chi tiết được; hay nói
rõ hơn, nếu một người nào đó thực hiện được một
sự kiện lạ lùng, thì sự kiện lạ lùng ấy cũng chưa
thể được hợp thức hóa hay được công nhận một cách
chắc chắn, vì các phù thủy vua Pharaon cũng có thể làm
cho chiếc gậy biến thành con rắn hoàn toàn tương tự
như Tổ phụ Môsê vậy (x. Xh 7,8-13). Và chính Chúa Giêsu
cũng nói là mấy tên ngôn sứ giả, tức mấy tên
Phản-Kitô, cũng có thể làm được các điều thiêng dấu
lạ vĩ đại có sức thuyết phục (x Mt 24,24).
Trong
khi việc tìm kiếm lợi ích vật chất cá nhân hay ý tưởng
chỉ muốn làm vừa lòng người khác một cách trần thế
trong sứ mệnh phụng sự Nước Trời rõ ràng là những
dấu hiệu báo động quan trọng (x. 1Tx 2,3-7), vì chúng
chắc chắn không do Thần Khí Thiên Chúa tác động, thì
chính nhịp độ và cách thức sống hợp lý cũng chưa
nhất thiết là tiêu chuẩn đích thực để phê phán một
người nào đó là bạn tâm phúc của Thiên Chúa. Một
cuộc sống hoàn thiện chân chính mới là tiêu chuẩn đích
thực để được đánh giá là thuộc hàng ngũ các bạn
hữu của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, trước tiên người ta
không thể luôn luôn xác định cuộc sống ấy một cách
chính xác được, nếu không, Chúa Giêsu đã không cảnh
giác trước cảnh “chó sói đột lốt chiên” (x.
Mt7,15). Tiếp đến, trong suốt dòng lịch sử của Giáo
Hội đã có những người và những phong trào chủ trương
đi tìm kiếm sự hoàn hảo thánh thiện qua một lối sống
chìm đắm trong kinh nguyện và trong chay tịnh khắc khổ,
nhưng đáng tiếc là các giáo huấn của họ lại hoàn
toàn đi ngược với các giáo huấn chính thức của Giáo
Hội.
Ở
đây chúng ta có thể liên tưởng đến, ví dụ: Phong trào
của những Kitô hữu Katharer từ thế kỷ 12 đến thế kỷ
14 tại miền Nam nước Pháp, sau đó lan tràn sang cả Ý,
Tây Ban Nha và Đức. Các Kitô hữu này cũng được gọi
là Albigenser, danh xưng này phát xuất từ tên của thành
phố Albi ở miền Nam nước Pháp, bản doanh của phong
trào. Họ tự cho mình là “veri Christiani” các Kitô hữu
chân chính. Họ là những người ngoan đạo, nhưng các chủ
trương thần học của họ lại hoàn toàn khác với giáo
lý của Giáo Hội. Họ chủ trương thuyết Nhị Nguyên
(Dualisme), tức cho rằng hiện hữu song hành hai thế giới
đối lập nhau – thế giới sự dữ, tức thế giới vật
chất đời này, và thế giới tinh thần là thế giới
thánh thiện và chỉ có trên Thiên đàng và sự thiện
hảo trong con người, tức linh hồn, sẽ giải thoát con
người thoát khỏi thế giới này và đưa về Thiên đàng.
Hay
trong thời đại ngày nay, chúng ta cũng có thể liên tưởng
đến nhóm Công Giáo thủ cựu của TGM Marcel Lefèbre. Họ
bác bỏ các quyết định canh tân hợp lý và cần thiết
trong đời sống Giáo Hội của Công đồng Vatican II, vì
cho đó không phải là tác động của Thần Khí Thiên
Chúa, nhưng là của thần khí thế tục, thần khí Tam
Điểm. Nhưng điểm quyết định ở đây là họ phê phán
và chối bỏ các quyết định của Công đồng như thế
không dựa trên lý do pháp lý, tức tính cách hợp pháp
hay bất hợp pháp của các quyết định ấy của Công
đồng, nhưng là dựa trên cảm tính thuần túy, tức dựa
trên các cảm xúc và cảm nhận của họ. Họ tự cho mình
là những người Công Giáo chính thống, vì họ vẫn giữ
nguyên cuộc sống Kitô hữu của mình như thời trước
Công đồng.
Hơn thế nữa, xem ra họ không còn tự coi mình là con cái của Mẹ Giáo Hội nữa, nhưng là đối tác ngang hàng với các yêu sách chủ quan khó chấp nhận của họ trong các cuộc đối thoại tay đôi với Giáo Hội trong suốt mấy thập niên vừa qua. Và hiện tại họ đang do dự, chứ chưa dứt khoát giữa hai sự lựa chọn: hoặc tuân phục quyền giáo huấn của Giáo Hội, chấp nhận các quyết định của Công đồng như là hoa quả của Thần Khí Thiên Chúa và đoàn tụ lại trong lòng Mẹ Giáo Hội, hoặc vẫn tiếp tục bảo thủ quan điểm chủ quan lệch lạc của mình để trở thành một lạc giáo mới!
Hơn thế nữa, xem ra họ không còn tự coi mình là con cái của Mẹ Giáo Hội nữa, nhưng là đối tác ngang hàng với các yêu sách chủ quan khó chấp nhận của họ trong các cuộc đối thoại tay đôi với Giáo Hội trong suốt mấy thập niên vừa qua. Và hiện tại họ đang do dự, chứ chưa dứt khoát giữa hai sự lựa chọn: hoặc tuân phục quyền giáo huấn của Giáo Hội, chấp nhận các quyết định của Công đồng như là hoa quả của Thần Khí Thiên Chúa và đoàn tụ lại trong lòng Mẹ Giáo Hội, hoặc vẫn tiếp tục bảo thủ quan điểm chủ quan lệch lạc của mình để trở thành một lạc giáo mới!
Đây
là trường hợp hoàn toàn tương tự như trường hợp
nhóm “Cựu Công Giáo” tức những người cũng đã phản
đối tín điều “Bất khả ngộ” của Đức Giáo
Hoàng mà Công đồng Vatican I đã thiết lập dưới sự
soi sáng của Thần Khí Thiên Chúa, và họ đã tự tách ra
khỏi Giáo Hội Công Giáo. Họ tự gọi mình là những
người “Cựu Công Giáo” (Alt-Katholiken), vì họ vẫn
giữ nếp sống Công Giáo như trước Công đồng Vatican I.
Ngày nay nhóm này chỉ còn sống rời rạc ở một vài
nước Thụy Sĩ hay Hòa Lan, còn đa số đã trở lại với
Giáo Hội Công Giáo Roma.
Trên
đây là ba trường hợp tiêu biểu trong bao trường hợp
khác đã từng xảy ra trong lòng Giáo Hội, và đã làm cho
trái tim của Mẹ Giáo Hội bao phen phải rớm máu. Tất cả
những hiện tượng và sự kiện ấy đều có một điểm
gặp gỡ chung trong cuộc sống tinh thần của họ, đó là:
Họ tách biệt hoàn toàn sự xác tín chủ quan của mình
cũng như lý tưởng tìm kiếm một cuộc sống hoàn thiện
và chay tịnh khắc khổ ra khỏi tinh thần tuân phục và
đức khiêm tốn. Trong khi hai nhân đức tuân phục và
khiêm tốn là dấu chỉ để nhận diện những người
được tuyển chọn của Nước Trời, chứ không phải là
lòng kiêu căng và sự tự khẳng định mình một các chủ
quan, vì Kinh Thánh đã dạy: “Vâng lời thì tốt hơn của
lễ” (x. 1Sm 15,22b). Và đồng thời họ quên đi lời
khẳng định của Chúa với Giáo Hội: “Thầy ở cùng
các con mọi ngày cho tới tân thế.”(Mt 28,20b)
Đàng
khác chúng ta cũng đừng quên nguyên tắc này: Điểm quyết
định khi phán đoán về một sứ điệp nào đó là phải
dựa trên chính nội dung của nó, chứ không phải nhất
thiết dựa trên cách thức của những người sống theo
sứ điệp ấy. Thật vậy, Tin Mừng Cứu Độ của Đức
Kitô đã được các thánh Tông Đồ rao giảng cho mọi dân
tộc trên khắp thế giới và các ngài đã lưu truyền
quyền giáo huấn ấy lại cho Giáo Hội Công Giáo, một
Giáo Hội được nối tiếp liên tục từ các thánh Tông
Đồ qua dòng lịch sử trên 2000 năm và mãi cho tới hôm
nay. Vì thế, trong số các Giáo Hội thuộc Kitô giáo thì
Giáo Hội Công Giáo được gọi là Giáo Hội Tông Truyền
và được ủy quyền giáo huấn và cắt nghĩa Tin Mừng
Đức Kitô một cách hợp pháp, mặc dù trong suốt hơn
2000 năm lịch sử của Giáo Hội đã không thiếu những
thành phần của Giáo Hội từng gây nên những xì-căng-đan
bằng những lý thuyết chủ quan, ngược lại với các
giáo huấn chính thức của Giáo Hội và đã gây nên những
cuộc chia rẽ và ly giáo đầy đau thương như đã từng
xảy ra trong Giáo Hội.
Trong
đời sống thực tế, một kinh nghiệm cụ thể cũng chứng
minh cho thấy rằng, trên thế giới hiện tại chỉ có
Giáo Hội Công Giáo là điểm tựa luân lý khả tín và
chắc chắn duy nhất cho toàn thế giới, cũng như tiếng
nói của các Đức Giáo Hoàng luôn vẫn còn gây được
những ảnh hưởng tinh thần sâu rộng nhất định, và là
tiếng nói luân lý duy nhất còn được cả thế giới
đánh giá cao và đón nhận.
Tiếp
đến, một kinh nghiệm khác cũng chứng minh cho thấy rằng,
khi một người hay một nhóm người nào đó vì bất cứ
lý do gì mà lìa bỏ Giáo Hội Công Giáo, không còn hay
không được thông công với đời sống Giáo Hội nữa,
thì cuộc sống đức tin của họ không chóng thì chầy sẽ
từ từ bị phôi phai, lệch lạc, rã rời và mất dần
sức sống; và nếu không trở thành lạc giáo và tiếp
tục lún sâu vào những giáo lý sai lạc và những lối
sống phản luân lý Kitô giáo, thì cũng sẽ bị đồng hóa
vào xã hội trần thế. Đó là hiện tượng đang xảy ra
cho các Giáo Phái hay các Giáo Hội thuộc Kitô giáo ngoài
Giáo Hội Công Giáo. Điển hình là trường hợp Giáo Hội
Anh Giáo: Vì các nguyên nhân sai lạc, như phong chức Giám
Mục và Linh Mục cho các người đồng tình luyến ái, cho
các phụ nữ, làm phép hôn phối cho những người đồng
tính, v.v…, nên từ nhiều năm nay đã có hàng loạt các
tín hữu Anh Giáo quay trở về xin gia nhập Giáo Hội Công
Giáo, từ các Giám Mục, Linh Mục cho tới các giáo dân.
Một
tiêu chuẩn khác cũng được áp dụng trong khi phê phán
những kinh nghiệm của bản thân, mà tất cả các tác giả
đã được nêu danh, bắt đầu từ các Giáo Phụ qua thánh
Caterina thành Siena và thánh Tê-rê-xa thành Avila cho tới
Hans Urs von Balthasar, nhà thần học Công Giáo thời danh
trong thế kỷ 20, đó là: Ai thực sự muốn tiếp cận
Thiên Chúa, thì không thể làm được gì khác ngoài việc
phải nỗ lực trở nên khiêm tốn hơn. Một sự trải
nghiệm thực sự về ân sủng siêu nhiên và về khả năng
của mình cũng sẽ làm cho con người nhận chân được
rằng, ơn nghĩa Chúa và đức tin không phải là những
điều con người có thể chiếm hữu hay kín múc được
bằng sức lực của mình, nhưng hoàn toàn do Chúa ban một
cách nhưng không. Chính sự khám phá và xác tín được
những giới hạn của mình, người ta sẽ sống khiêm tốn
hơn.
Như
vậy, tinh thần khiêm tốn không hề là một tự ti mặc
cảm và cầm chân sự phát huy của con người, nhưng là
nguồn mang lại niềm vui sâu thẳm cho tâm hồn, sự kiên
nhẫn và sức mạnh nội tâm. Bởi vì, tinh thần khiêm tốn
không phải là luôn luôn tự cho mình bé nhỏ, thấp hèn
và vô dụng, nhưng là biết nhận chân được con người
thật của mình với các ưu khuyết điểm và các giới
hạn của mình.
Nhất là luôn biết xác tín rằng, không có bất cứ quyền lực ngoại tại nào có thể ngăn cản được Lời Chúa và các tác động của Thần Khí Người, vì Thần Khí Chúa cũng giống như gió, muốn thổi đâu tùy ý (x.Ga 3,8). Tinh thần khiêm tốn còn là hoa quả của lòng từ bi nhân hậu và lòng đại lượng bao dung, và vì thế là dấu chỉ để nhận diện các ngôn sứ và các bạn hữu của Thiên Chúa, tức những người luôn biết liên kết với người khác qua kinh nguyện của mình và không bao giờ chỉ tìm kiếm lợi ích riêng mà quên các đồng loại của mình.
Chính sự cảm nghiệm này sẽ làm nảy sinh lòng khao khát cháy bỏng là chỉ mong muốn sống một cuộc sống hoàn toàn theo sự an bài của thánh ý Thiên Chúa. Nghĩa là không bảo thủ sự cảm nghiệm ấy như một kỷ niệm cho riêng mình, vì như thế sẽ làm cho nó không thể sinh ra được các hoa quả bác ái hữu ích. Cuộc sống và các khả năng của con người chỉ thực sự có giá trị trước mặt Thiên Chúa và xã hội, khi chúng được sử dụng một cách đúng đắn để phục vụ và mưu ích cho đồng loại mà thôi (x. Mt 25,31-46).
Nhất là luôn biết xác tín rằng, không có bất cứ quyền lực ngoại tại nào có thể ngăn cản được Lời Chúa và các tác động của Thần Khí Người, vì Thần Khí Chúa cũng giống như gió, muốn thổi đâu tùy ý (x.Ga 3,8). Tinh thần khiêm tốn còn là hoa quả của lòng từ bi nhân hậu và lòng đại lượng bao dung, và vì thế là dấu chỉ để nhận diện các ngôn sứ và các bạn hữu của Thiên Chúa, tức những người luôn biết liên kết với người khác qua kinh nguyện của mình và không bao giờ chỉ tìm kiếm lợi ích riêng mà quên các đồng loại của mình.
Chính sự cảm nghiệm này sẽ làm nảy sinh lòng khao khát cháy bỏng là chỉ mong muốn sống một cuộc sống hoàn toàn theo sự an bài của thánh ý Thiên Chúa. Nghĩa là không bảo thủ sự cảm nghiệm ấy như một kỷ niệm cho riêng mình, vì như thế sẽ làm cho nó không thể sinh ra được các hoa quả bác ái hữu ích. Cuộc sống và các khả năng của con người chỉ thực sự có giá trị trước mặt Thiên Chúa và xã hội, khi chúng được sử dụng một cách đúng đắn để phục vụ và mưu ích cho đồng loại mà thôi (x. Mt 25,31-46).
Khi
phải đối mặt với các thần khí khác biệt nhau và đối
lập với nhau: một bên là Thần Khí Thiên Chúa, Thần Khí
của sự sống, của chân lý và của tình yêu; còn một
bên kia là thần khí nguy hại, thần khí của sự dối
trá, của bịp bợm, của ghen ghét hận thù, của sa đọa
phóng túng và của sự chết chóc, v.v… con người đòi
buộc phải có một sự phân biệt đúng đắn và rõ ràng,
cũng như phải có một sự chọn lựa dứt khoát, ngay cả
khi phải hy sinh từ bỏ những lợi ích và những vinh dự
đời này hay cả đến mạng sống của chính mình nữa.
Vì sự lựa chọn này có tác dụng mang tính cách quyết định đến cuộc sống hạnh phúc và sự tiêu diệt đời đời của con người (x. Gl 5,16-24).
Vì sự lựa chọn này có tác dụng mang tính cách quyết định đến cuộc sống hạnh phúc và sự tiêu diệt đời đời của con người (x. Gl 5,16-24).
Hay
cụ thể hơn, sống giữa một xã hội đa nguyên và đa
dạng như xã hội ngày nay, con người cần phải tỉnh táo
để phân biệt được một cách đúng đắn các trào lưu
tư tưởng, các quan niệm và các lối sống không chỉ
hoàn toàn khác biệt nhau mà còn đối lập nhau nữa, hầu
có thể chọn lựa cho mình được các tư duy đúng đắn
và một lối sống hợp lý, để nhờ thế con người mới
có thể đạt tới được sự hạnh phúc chân thật.
Trên con đường dẫn tới sự hạnh phúc chân thật ấy chỉ có Thần Khí Thiên Chúa, tức Chúa Thánh Thần hay Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng duy nhất mới có thể soi dẫn và dìu dắt con người đi đúng đường và đạt tới đích bằng 7 Ơn Thánh cao cả của Người, đó là:
Trên con đường dẫn tới sự hạnh phúc chân thật ấy chỉ có Thần Khí Thiên Chúa, tức Chúa Thánh Thần hay Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng duy nhất mới có thể soi dẫn và dìu dắt con người đi đúng đường và đạt tới đích bằng 7 Ơn Thánh cao cả của Người, đó là:
2.
Ơn Hiểu biết: giúp
ta hiểu rõ được các Giới Răn của Chúa và của Giáo
Hội.
3.
Ơn Lo Liệu: giúp
ta biết giải quyết đúng đắn các khó khăn của cuộc
sống.
4.
Ơn Sức Mạnh: giúp
ta vượt qua mọi khó nguy trong cuộc sống và chu toàn được
các bổn phận của mình.
5.
Ơn Thông Minh: giúp
ta nhận ra được thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của
cuộc sống.
6.
Ơn Đạo Đức: giúp
ta luôn biết yêu mến và tín thác nơi Chúa và nâng đỡ
trợ giúp các anh chị em đồng loại.
7.
Ơn Kính Sợ Thiên Chúa: giúp
ta tôn thờ Chúa, kính trọng quyền năng của Người và
xa tránh tất cả những điều xúc phạm đến Người.
Lạy
Chúa Thánh Thần, Thần Linh Chân Lý, xin hãy đến và soi
sáng cho con cái loài người chúng con trong cuộc sống
dương thế đầy gian nan thử thách này, hầu chúng con
luôn là những Kitô hữu chân chính, trung kiên và nhân
hậu, để nhờ thế chúng con thực sự là nhân chứng
sống động của Đức Kitô giữa lòng đời. Amen
(*)
x. Avery Dulles, A Church to Believe in (New York: Cossroad, 1982,
trang 133, Tín Điều vô ngộ của Giáo Hội đã được
Công đồng Vatican I công bố, và Công đồng Vatican II cũng
đã xác quyết thêm một lần nữa trong Hiến Chế Lumen
Gentium, số 25.
Lm.
Nguyễn Hữu Thy