Đặc ân Phaolô là gì?
Hỏi: Xin giải thích cho con
hiểu về đặc ân Phaolô và cách áp dụng đặc ân ấy trong các vụ hôn phối.
Trả lời:
Đặc ân Phaolô có nguồn gốc
từ giáo huấn của Thánh Phaolô, được ghi lại trong thứ nhất gửi tín hữu Corinto:
“Còn với những kẻ khác thì tôi nói – chính tôi, chứ không phải Chúa – nếu anh
em nào có vợ ngoại đạo mà người này bằng lòng ở với người ấy thì người ấy đừng
rẫy vợ. Người nào có chồng ngoại đạo mà người này bằng lòng ở với người ấy thì
đừng bỏ chồng. Thật vậy, chồng ngoại được thánh hóa nhờ vợ, và vợ ngoại thì được
thánh hóa nhờ chồng … Nếu người ngoại đạo muốn bỏ người kia thì cứ bỏ. Trong
trường hợp đó, chồng hay vợ có đạo không bị luật hôn nhân ràng buộc. Thiên Chúa
đã kêu gọi anh em sống bình an với nhau.” (1 Cr 7,12-15)
Dựa trên nền tảng này, xuất
phát vì lợi ích đức tin của tín hữu, Giáo Hội đã quy định trong Giáo Luật số
1143 cho phép giải gỡ hôn phối của hai người chưa rửa tội khi cưới nhau, mà
nay, một trong hai người này xin Rửa Tội gia nhập Giáo Hội Công Giáo và/để kết
lập một hôn phối mới, khi người phối ngẫu không rửa tội kia đã đoạn tuyệt với
người này.
Ví dụ 1: Anh A và chị B, cả
hai đều không Công Giáo, cưới nhau. Sau một khoảng thời gian chung sống, anh A
lãnh Bí Tích Rửa Tội và trở thành người Công Giáo. Chị B vẫn là người ngoài
Công Giáo. Sau đó, vì lý do này mà hai người không thể sống chung hòa thuận với
nhau, chị B nhất quyết đòi chia tay. Trong trường hợp này, anh A và một người
Công Giáo hoặc không Công Giáo khác có thể cưới nhau với phép của Bản Quyền địa
phương [Đức Giám Mục Giáo Phận].
Nhưng hiểu thế nào về từ
“đoạn tuyệt” trong quy định trên?
Giáo Luật 1143 trả lời rằng:
Hiểu là đoạn tuyệt khi:
* Người không rửa tội không
muốn chung sống với người đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội
Ví dụ 2: Anh A và chị B, cả
hai đều không Công Giáo, cưới nhau. Sau một khoảng thời gian chung sống, anh A
được ơn hoán cải và muốn chịu Phép Rửa để gia nhập Công Giáo. Nhưng chị B không
đồng ý khiến đời sống vợ chồng lục đục. Anh A chịu Phép Rửa và chị B quyết định
ly hôn. Trong trường hợp này, anh A và một người Công Giáo hoặc không Công Giáo
khác có thể cưới nhau với phép của Bản Quyền địa phương [Đức Giám Mục Giáo Phận].
* Người không rửa tội không
muốn chung sống thuận hòa mà không xúc phạm đến Đấng Tạo Hóa.
Ví dụ 3: Anh A và chị B, cả
hai đều không Công Giáo, cưới nhau. Sau một khoảng thời gian chung sống, anh A
được ơn hoán cải và muốn chịu Phép Rửa để gia nhập Công Giáo. Chị B không đồng
ý. Dù không ly hôn nhưng sau khi anh A chịu Phép Rửa, chị B luôn lớn tiếng xúc
phạm đến Chúa khiến cho đời sống của hai vợ chồng không thể tốt đẹp được. Họ
quyết định ly hôn. Trong trường hợp này, anh A và một người Công Giáo hoặc
không Công Giáo khác có thể cưới nhau với phép của Bản Quyền địa phương [Đức
Giám Mục Giáo Phận].
Nhưng Giáo Luật cũng nói
thêm rằng “việc đoạn tuyệt này không phải do người chịu phép Rửa Tội gây ra để
kiếm cớ mà đoạn tuyệt với người đó.”
Ví dụ 4: Anh A và chị B, cả
hai đều không Công Giáo, cưới nhau. Sau một khoảng thời gian chung sống, anh A,
vì muốn cưới cô C là người Công Giáo, nên đã xin gia nhập Công Giáo, rồi về kiếm
cớ gây gỗ, khiến cô B phải ly hôn anh để anh có thể cưới cô C, hoặc kiếm cớ gây
gỗ khiến cô B phải ly hôn mình, rồi sau đó xin Rửa Tội để gia nhập Công Giáo.
Đây là điều không được phép và đặc ân Phaolô không áp dụng trong trường hợp
này.
Hoặc:
Ví dụ 5: Anh A và chị B, cả
hai đều không Công Giáo, cưới nhau. Sau một khoảng thời gian chung sống, anh A
muốn chịu Phép Rửa để gia nhập Công Giáo. Chị B không có ý kiến gì và đời sống
của họ không có gì trục trặc. Nhưng không lâu sau đó, anh A, vì muốn cưới chị C
là người Công Giáo, nên về nhà kiếm cớ gây chuyện để ép chị B phải ly hôn. Đây
là điều không được phép và đặc ân Phaolô không áp dụng trong trường hợp này.
Bản quyền địa phương là người
có thẩm quyền ban đặc ân này. Thường, ngài sẽ cử người điều tra để xác minh những
điều kiện vừa nói ở trên. Cụ thể, sẽ phải có một cuộc chất vấn dành cho người
không rửa tội (chị B trong các ví dụ trên), hỏi xem chị ta có muốn chịu phép rửa
giống người kia (anh A) không hoặc ít ra là có muốn sống hòa thuận với anh A mà
không xúc phạm đến Đấng Tạo Hóa không. Giáo Luật 1144 còn nói rõ: “Sự chất vấn
như vậy được thực hiện sau khi [anh A] rửa tội. Vì lý do quan trọng, Bản Quyền
sở tại [Đức Giám Mục] có thể cho phép thực hiện sự chất vấn trước khi rửa tội,
hay kể cả miễn chuẩn việc chất vấn hoặc trước hoặc sau khi rửa tội, miễn là
ngài thấy rõ ràng, ít là sau một thủ tục đơn giản ngoài tố tụng, rằng việc chất
vấn không thể thực hiện được, hay sẽ vô ích.”
Pr. Lê Hoàng Nam, SJ,
dongten.net 21.03.2015