Hiểu thế nào về câu
"ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ"?
Hỏi: Xin giải thích cho tôi
hiểu câu “Ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ”. Thế thì chẳng lẽ người không theo
đạo Công Giáo thì không được vào Nước Trời à?
Trả lời:
Ơn cứu độ được ban cho
chúng ta qua Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của thế giới (x. Cv 4,12).
Thánh Thần đã ban ơn cứu độ này qua Thân Thể của Người là Giáo Hội. “Ai nghe
anh em là nghe Thầy và ai chối bỏ anh em là loại trừ Thầy, và ai chối bỏ Thầy thì
cũng là chối bỏ Đấng đã sai Thầy” (Lc 10,16).
Trích dẫn từ nhiều văn kiện
của Công Đồng Vatican II và của Đức Phaolô VI, sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo
số 776 giải thích rằng:
“Xét như một bí tích, Giáo
Hội là công cụ của Đức Kitô. Giáo Hội được Người sử dụng như công cụ để mang ơn
cứu độ cho tất cả mọi người, bí tích phổ quát của ơn cứu độ, mà qua đó Đức Kitô
đã diễn tả và hiện thực hóa đầy đủ mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa dành cho con
người. Giáo Hội là kế hoạch hữu hình của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại
vì Thiên Chúa muốn rằng toàn thể nhân loại trở thành một Dân của Chúa, làm nên
một Nhiệm Thể của Đức Kitô và Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.”
Có hai vấn đề chính xảy đến
liên quan đến giáo huấn “extra ecclesiam nulla salus” của Giáo Hội. Một vài người
cho rằng giáo huấn này vừa sai lầm, vừa thể hiện sự kiêu ngạo. Những người khác
thì giải thích phát biểu này theo kiểu kết án những ai minh nhiên chối bỏ việc
hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo Rôma. Để có thể hiểu đúng giáo huấn này,
chúng ta phải xem xét nó trong bối cảnh của mặc khải và lịch sử Giáo Hội. Việc
xem xét này sẽ cho chúng ta biết rằng câu này không nhằm diễn tả việc ai được
lên Thiên Đàng, ai phải xuống Hỏa Ngục, vì chỉ có Thiên Chúa mới có quyền phán
xét điều này. Đúng hơn, câu này có ý diễn tả một sự hiểu biết về Giáo Hội trong
tương quan giữa vai trò của Giáo Hội với ơn cứu độ của thế giới.
Dịch nghĩa
Nhiều người đã dịch câu
Latin “extra ecclesiam nulla salus” thành “ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ.”
Chuyển dịch như thế này dường như không diễn tả đúng ý nghĩa của câu Latin, có
khi còn khiến cho người ta hiểu nhầm.
Từ “extra” trong tiếng
Latin vừa là trạng từ vừa là giới từ. Tùy thuộc vào cách sử dụng trong câu mà từ
đó có nghĩa khác nhau. Khi dùng để diễn tả tương quan về không gian giữa các đối
tượng, từ này có nghĩa là “bên kia” hay “bên ngoài” (ví dụ: James ở bên ngoài
căn phòng). Còn khi nó dùng để diễn tả những tương quan trừu tượng giữa các
khái niệm hoặc những vật không thể cầm nắm được thì nó có nghĩa là “nếu không”,
“mà không” (ví dụ: không có phương pháp, thật khó mà dạy). Trong câu Latin kia,
từ “extra” là một giới từ diễn tả tương quan trừu tượng giữa Giáo Hội với ơn cứu
độ, nên trong sắc thái Latin của từ này, cần phải hiểu là “không có Giáo Hội
thì cũng không có ơn cứu độ”. Dịch như thế này thì phản ánh đúng hơn ý nghĩa của
giáo huấn của Giáo Hội.
Nền tảng Kinh Thánh
Trong Tin Mừng theo thánh
Maccô, sau khi Phục Sinh, Đức Giêsu hiện ra với mười một tông đồ và trao cho
các ông sứ mạng “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ và rao giảng Tin Mừng cho mọi
loại thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa thì sẽ được cứu độ, còn ai không tin thì
sẽ bị kết án” (Mc 16,15-16).
Để có thể đón nhận hay chối
bỏ Tin Mừng, thì trước hết, phải có việc người đó tiếp xúc với Tin Mừng. Nếu việc
chối bỏ hay đón nhận chân lý được đặt nền trên những mặc khải tư dành cho cá
nhân người này người kia thì chẳng cần Đức Kitô sai phái các Tông Đồ đi rao giảng
Tin Mừng. Đức Kitô muốn mặc khải chính mình thông qua Giáo Hội, là chính thân
thể của mình. Đoạn Tin Mừng trên kết án những ai chối bỏ chân lý, chứ không kết
án những ai vì lý do gì đó mà chưa được nghe đến Tin Mừng như Đức Kitô muốn.
Khi viên sĩ quan đến gặp Đức
Giêsu ở Caphacnaum và xin Người chữa lành bệnh cho tên đầy tớ của mình, Đức
Giêsu đã đồng ý đến nhà ông, nhưng vị này đã nó rằng: “Lạy Chúa, con chẳng đáng
Chúa vào nhà con, nhưng xin chỉ phán một lời thì đầy tớ của con sẽ được lành”
(Mt 8,8). Đức Giêsu trả lời: “Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người
Israel nào có lòng tin như thế. Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương
tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Apraham, Ixaac và Giacop trong
Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó
người ra sẽ phải khóc lóc nghiến răng. (Mt 8,10-13)
Đức Giêsu đã làm rõ sự khác
biệt giữa những người là con cái của Nước Trời (những ai biết và đón nhận đức
tin) và những người không phải là con cái Nước Trời. Người đã tính vào Nước Trời
rất nhiều người tưởng chừng như không phải. Đức Giêsu đã ban ơn cho chúng ta
qua việc nhập thể, và người ta nhận biết sự hiện diện của Người qua Giáo Hội.
Giáo Hội gánh lấy công việc của Đức Kitô tại thế. Những ai mà Giáo Hội chưa thể
mang Tin Mừng đến được thì Thiên Chúa sẽ xét xử theo cách mà chỉ có Chúa biết
theo lòng nhân từ của Ngài. Như thánh Phaolô nói:
“Dân ngoại là những người
không có Luật Mô-sê, nhưng mỗi khi họ theo lẽ tự nhiên mà làm những gì Luật dạy,
thì họ là Luật cho chính mình, mặc dầu họ không có Luật Mô-sê. Họ cho thấy là
điều gì Luật đòi hỏi thì đã được ghi khắc trong lòng họ. Lương tâm họ cũng chứng
thực điều đó vì họ tự phán đoán trong lòng, khi thì cho mình là trái, khi thì
cho mình là phải. Người ta sẽ thấy điều đó, trong ngày Thiên Chúa cho Đức Kitô
Giêsu đến xét xử những gì bí ẩn nơi con người theo Tin Mừng tôi rao giảng.” (Rm
2,10-13)
Thánh truyền
Những ai cho rằng Thiên
Chúa giới hạn ơn cứu độ chỉ cho tín hữu Công Giáo thì trích dẫn lời của các
Giáo Phụ để chứng minh cho lập trường của mình. Dù khoảng cách về không gian
không cho phép chúng ta phân tích triệt để về các vị, nhưng cũng cần phải lưu ý
đến vài điều. Thứ nhất, chúng ta phải hiểu các Giáo Phụ trong văn cảnh của họ,
chứ không phải trong bối cảnh của người trích dẫn. Phần lớn các Giáo Phụ viết về
đề tài này đều bận tâm đến những người đã tin hay đã nghe nói đến chân lý,
nhưng lại chối bỏ nó. Nhiều người trong số họ tin rằng cả thế giới này đều đã
nghe biết về Tin Mừng. Những lời của họ không có ý nói đến những ai, không phải
do lỗi của mình, mà không biết đến Tin Mừng của Đức Kitô.
Các Giáo Phụ xác định mạnh
mẽ mối nguy của việc quyết tâm loại trừ Giáo Hội. Chẳng hạn, thánh Inhaxio
thành Antiokia đã viết vào khoảng thế kỷ thứ 2 rằng: “Anh em thân mến, đừng để
bị lừa gạt, nếu có ai theo lạc giáo, người ấy sẽ không được thừa hưởng Nước
Chúa” (Thư gửi cho các tín hữu ở Philadenphia 3,3). Vào thế kỷ thứ 3, thánh
Cyprian thành Carthage viết rằng: “Bất cứ ai tách ra khỏi Giáo Hội và gia nhập
lạc thuyết Tà Dâm, người ấy bị tách ra khỏi lời hứa của Giáo Hội và những ai từ
bỏ Giáo Hội cũng sẽ không được hưởng phần thưởng của Đức Kitô. Anh ta là một kẻ
xa lạ, một tên trần tục, một kẻ thù” (Hiệp Nhất Giáo Hội Công Giáo 6,1). Vào thế
kỷ thứ 4, Thánh Jerome viết: “Những kẻ lạc giáo thì mang bản án trên mình vì với
chọn lựa của mình, họ đã tách ra khỏi Giáo Hội, và vì họ ý thức về điều đó, việc
tách ra đó sẽ làm nên bản án kết tội họ” (Chú giải thư Titus 3,10-11).
Tuyên bố của Huấn Quyền
Qua lịch sử Giáo Hội, Huấn
Quyền đã chấp nhận và tổng hợp lại giáo huấn này. Nhận thấy rằng Thiên Chúa sẽ
phán xét con tim của chúng ta qua những ơn lành mà chúng ta nhận được trong sự
suy xét đến tính vô tri của chúng ta – một sự-không-biết mà không phải do lỗi của
mình. Tất cả những ai hiểu biết chân lý thì được giả định là sẽ đón nhận nó. Những
ai không được ban cho ơn này thì sẽ được xét xử theo luật được khắc ghi trong
con tim của họ. Hai ví dụ đáng lưu ý cho luận điểm này được tìm thấy trong Trong
Sắc Unam Sanctam của Đức Boniface VIII và Thông Điệp Quanto Conficiamur Moerore
của Đức Piô IX.
Đức Boniface VIII đã viết về
bản chất của Giáo Hội và quyền tối cao của Giáo Hoàng. Ngài không viết về việc
kết án những ai chưa hề nghe biết về Tin Mừng. Sau khi nói về chân lý rằng chỉ
có một Thiên Chúa, một đức tin, một phép rửa và một Giáo Hội, ngài giải thích rằng
thẩm quyền tối cao của Giáo Hoàng nằm ở cả bình diện trần tục lẫn thiêng liêng.
Thế rồi, ngài kết thúc rằng: “Chúng tôi làm rõ, nói, xác định và tuyên bố rằng
để mọi người được ơn cứu độ, người ấy phải tuyệt đối phục quyền của Đức Giáo
Hoàng.” Đây không phải là một phát biểu đòi người ta phải biết đến quyền tối thượng
của Đức Giáo Hoàng để được cứu độ, nhưng đúng hơn, nó muốn nói đến một sự thật
rằng Đức Giáo Hoàng nhận thẩm quyền từ Thiên Chúa như người kế vị hợp pháp của
Thánh Phêrô, người mà Chúa chúng ta đã trao cho chìa khóa Nước Trời.
Đức Piô IX cũng diễn tả rõ
ràng giáo huấn này một thế kỷ trước. Bài viết của ngài phân biệt giữa những ai
tự bản chất không biết đến Tin Mừng và những ai cố ý muốn tách mình ra khỏi
Giáo Hội:
“Dĩ nhiên, có những người
không biết đến tôn giáo thánh của chúng ta. Chân thành mà nói, khi tuân giữ luật
tự nhiên và những đòi hỏi mà Thiên Chúa ghi khắc trong con tim và sẵn sàng vâng
phục Thiên Chúa, họ sống một đời sống tốt lành và có thể thừa hưởng sự sống đời
đời nhờ ánh sáng và ơn sủng của Chúa chiếu tỏa trên nhân đức của họ. Vì Thiên
Chúa biết, tìm kiếm và hiểu rõ tâm trí, con tim, tư tưởng và bản chất của tất cả,
sự tốt lành và khoan dung tối cao của Ngài không cho phép bất cứ ai không biết
mà lại chịu hình phạt đời đời. Chúng ta cũng biết rõ là không ai có thể được cứu
mà không qua Giáo Hội Công Giáo. Người ta sẽ không thể có ơn cứu độ đời đời khi
chống lại thẩm quyền và giáo huấn của Giáo Hội và ngoan cố tách ra khỏi sự hiệp
thông với Giáo Hội và vị kế nhiệm Thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng, người được giao
nhiệm vụ trông coi vườn nho mà Đấng Cứu Độ đã trao phó.”
Để diễn tả giáo huấn chân
chính của Giáo Hội, Hội Đồng Giám Mục cũng đã giải thích học thuyết này trong bối
cảnh của thần học bí tích quy Kitô của Vatican II. Với lời của thánh Phaolô,
Công Đồng đã diễn tả Giáo Hội như là Hiền Thê và là Thân Thể của Đức Kitô
(Lumen Gentium, các số 6 và 7). Đức Giêsu là một với Hiền Thê của mình là Giáo
Hội (x. Ep 5,32). Cả hai cùng làm một Thân Xác hữu hình của Đức Kitô tại thế. Đức
Kitô là đầu và Người thực thi chức năng qua Thân Xác, chính là bí tích cứu độ
(Lumen Gentium, số 9). Ngài thực thi chức năng với ai? Cả thân thể của Ngài và
những phần tách ra khỏi thân thể ấy, mà Ngài cố gắng lôi kéo về trong chính
Ngài (ibid., số 13). Theo đó, Giáo Hội phân phát ơn cứu độ mà Đức Kitô đã chiến
thắng được. Những ai biết mà từ chối ơn này thì sẽ mất. Những ai đón nhận thì
được cứu. Những ai không có cơ hội để nhận ơn này thì có thể được cứu nhờ sự hiện
diện của Giáo Hội trên thế giới này (x. 1Cor 7,12-16). Giả như họ có được cứu
thì họ cũng được cứu nhờ Giáo Hội dù không nhận biết được ơn đó.
Tóm lại
Giáo huấn này về Đức Kitô
và về Giáo Hội của Người không có ý đề cập đến sự dửng dưng hay loại trừ. Bí
tích rửa tội và sự hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo là đảm bảo duy nhất về ơn cứu
độ nhưng không phải là phương tiện duy nhất. “Thiên Chúa đã ban ơn cứu độ trong
Bí Tích Rửa Tội, nhưng chính Ngài thì không bị ràng buộc bởi các bí tích”
(GLHTCG, số 1257)
Thánh Ý của Thiên Chúa là
“mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4). Để thực thi thánh ý
này, Đức Giêsu đã sai các Tông Đồ đi truyền giảng Tin Mừng và rửa tội cho những
ai muốn có ơn cứu độ ấy (Mc 16,16). Người ban cho chúng ta Bí Tích Rửa Tội và sự
hiệp nhất với Giáo Hội như phương tiện thông thường của ơn cứu độ. Qua Bí Tích
Rửa Tội, chúng ta trở thành người chia sẻ đời sống với Đức Kitô. Khi chúng ta
thông dự vào sự sống tròn đầy trong Giáo Hội, chúng ta trở thành những người
con ngoan của Cha trên trời, và của Mẹ là Giáo Hội. Để đảm bảo ơn cứu độ cho tất
cả mọi người, chúng phải thực thi lệnh truyền của Đức Kitô là đi rao giảng Tin
Mừng cho thế giới và mang tất cả vào trong Thân Thể Người là Giáo Hội.
Vì Thiên Chúa không bị giới
hạn trong các bí tích, nên Ngài có thể ban ơn cứu độ cho tất cả những ai Ngài
muốn theo cách mà chúng ta không thể biết được. Đây chính là nền tảng của giáo
huấn Giáo Hội về việc “rửa tội bằng ước muốn” (GLHTCG số, 1258 – 1260, 1281).
Chẳng hạn, việc rửa tội theo cách này được thực thi khi một người muốn lãnh nhận
Bí Tích Thanh Tẩy nhưng đã chết trước khi chịu phép rửa thực sự, hay khi người
ta chết mà không minh nhiên nhận biết Đức Kitô, nhưng đã sống theo chân lý. Chỉ
có Thiên Chúa mới có thể phán xét và quyết định vận mệnh đời đời của những linh
hồn này.
PHILIP C. L. GRAY (catholiceducation.org)
Chuyển ý: Pr. Lê Hoàng Nam,
SJ - dongten.net