Sự Hiện Hữu Của Thiên Chúa
1. Tôi chán những danh từ
thần học. Tại sao chúng ta không có một phúc âm đơn giản về Chúa Giêsu? Trở ngại
của Kitô Giáo ngày nay là quá nhiều đầu mà không đủ con tim.
Bạn bất bình nhưng có ý tốt.
Kitô Giáo không có nghĩa chỉ có giáo lý. Thiên Chúa ban cho chúng ta đầu óc và
con tim cùng một lúc, có lẽ Ngài muốn chúng ta sử dụng đến chúng. Chúa Giêsu
nói Ngài là sự thật, là đường và là sự sống (Gioan 14:6). Chân lý bao gồm kiến
thức và buộc chúng ta phải nghiên cứu tới mức mà đời sống cho phép. Ðây là lý
do mà Thánh Phêrô viết, "Hãy nỗ lực bổ sung đức tin với nhân đức, và bổ
sung nhân đức với sự hiểu biết" (2 Phêrô 1:5).
2. Tôi không tin bất cứ điều
gì tôn giáo dạy. Tôi tự coi mình là người của lý trí. Trước khi tin tôi phải
nhìn thấy đã. Nếu không thấy, thì tôi không tin.
Ðiều bạn nói thì không hợp
lý. Người có lý trí là người biết sử dụng lý trí, và bạn không thi hành điều
đó. Nếu bạn hạn hẹp niềm tin của bạn ở những gì mà giác quan cảm nhận được, bạn
đã bỏ qua biết bao nhiêu thực tại. Vũ trụ này bao gồm rất nhiều điều mà bạn
không thể tự mình khám phá ra được.
Nếu niềm tin của bạn chỉ
tùy thuộc vào con mắt của bạn mà thôi thì bạn cũng dễ bị sai lầm. Mắt bạn thấy
mặt trời mọc và lặn, nhưng lý trí của bạn (và niềm tin của bạn ở những điều mà
các nhà thiên văn, toán học, và vật lý nói cho chúng ta biết) giúp bạn nhận ra
một sự thật -- trái đất xoay chung quanh mặt trời.
Có nhiều điều, kể cả những
điều thiêng liêng, thực sự hiện diện dù bạn có nhìn thấy hay không. Người khước
từ sự hiện diện của những điều ấy thì không dựa trên lý trí, nhưng dựa trên
"sự tin tưởng mù quáng", và người khăng khăng cho rằng không có gì hiện
diện mà giác quan không thể cảm nhận được -- nhất là người từ chối siêu nhiên
--cũng có thể được coi là không thực tế.
Trong cuốn "Theology
and Sanity" của ông Frank Sheed, ông nói rằng, người từ chối siêu nhiên
thì cũng giống như một y sĩ từ chối không có vi khuẩn. Có lẽ bạn nghĩ chẳng có
y sĩ nào như thế cả. Một y sĩ không tin có vi khuẩn thì ông ấy hành nghề mà
không dựa trên khoa học, nhưng dựa vào thành kiến, và người nói rằng siêu nhiên
không có thực thì cũng giống như vậy.
3. Có phải sự kiện nhiều
tôn giáo trái ngược nhau có nghĩa tất cả các tôn giáo đều sai, và chúng ta
không cần phải nghe theo một tôn giáo nào cả?
Không hẳn vậy. Nhưng điều
đó chứng minh một sự thật của Kitô Giáo: thế giới là một nơi đầy xáo trộn.
Ðiều này quan trọng hơn là
mới thoáng nhìn qua. Thật buồn khi có nhiều tôn giáo kình chống nhau, cạnh
tranh nhau. Ðiều đó có nghĩa quá nhiều người đang tin tưởng một cách sai lầm.
Nhưng điều sau đây cho chúng ta thấy đâu là tôn giáo thật: Nếu thế giới này quá
hỗn loạn đến nỗi nhiều người tin tưởng cách lầm lạc, thì một tôn giáo thật phải
nhận thấy điều ấy. Do đó, bất cứ tôn giáo nào cho rằng thế giới này không sa lầy
trong sự hỗn loạn tôn giáo thì chúng ta có thể đặt tôn giáo ấy ra ngoài cuộc
tranh luận; vì nó không nhìn thấy một sự thật hiển nhiên và căn bản.
4. Vì có quá nhiều tôn giáo
trên thế giới này, nên tình cờ chọn được một tôn giáo đúng thì thật khó. Vậy
tôi có nên trì hoãn việc chọn lựa tôn giáo và coi như mình ngu dốt không?
Không. Có ba vấn đề trong
lý luận của bạn.
Thứ nhất nó có tính cách ngụy biện. Sự ngụy biện có thể thấy
trong một lý luận triết học mà nhiều người biết đến, được gọi là nghịch lý may
rủi. Giả sử chỉ có một vé trúng trong 100 vé số. Bạn chọn một vé, nhưng nghĩ rằng
cơ hội may mắn trúng giải có lẽ thật khó: một trong một trăm. Có lẽ chẳng có ai
trúng. Nhưng đối với vé thứ hai, thứ ba, và tất cả những vé khác thì cũng có thể
nói y như vậy. Nhìn một cách riêng biệt, thì sự may mắn trúng số giống y như
nhau. Nhưng nếu nghĩ như vậy để kết luận rằng chẳng có ai trúng số thì đó là sự
ngụy biện. Phải có một người trúng số. Lý luận này cũng áp dụng cho vấn đề tôn
giáo: Ngay cả thật khó để chọn được một tôn giáo đúng, điều đó không có nghĩa
là không có tôn giáo đích thực.
Thứ hai bởi từ chối không
muốn chọn một tôn giáo có nền tảng, bạn tự nhận cho mình một lập trường tôn
giáo: bất khả tri giáo (agnosticism). Ðây chỉ là một trong những giáo phái hên
xui may rủi không hơn không kém. Sự thực, nó còn tệ hơn thế.
Bất khả tri giáo, giáo phái
vô tôn giáo, là một lựa chọn chắc chắn không đem lại cho bạn bất cứ chân lý gì
về thế giới này. Ngay cả người vô thần còn có thể nói cho bạn nghe một vài điều
đúng với sự thật hơn là một người bất khả tri giáo, vì toàn bộbất khả tri giáo
nằm ở điểm đừng thắc mắc gì cả! (Vì không thể biết nên đừng thắc mắc!).
Thứ ba chọn mặt gửi vàng,
đừng nhắm mắt đưa chân. Có những bằng chứng để chúng ta tìm hiểu, cân nhắc, và
dùng đó như một nền tảng để lựa chọn. Chúng ta có thể lý luận để tìm ra sự hiện
diện của Thiên Chúa, về bằng chứng sự sống lại của Ðức Kitô, và những lý do tại
sao Tân Ước có thể đáng tin cậy trên phương diện lịch sử.
Một khi chúng ta có được những
bằng chứng đáng tin, chúng ta không còn nhắm mắt đi theo tôn giáo nào nữa. Sự lựa
chọn tôn giáo đích thực sẽ dễ dàng hơn.
5. Ông muốn nói gì về chữ
Thiên Chúa?
Thiên Chúa là một chủ thể
thiêng liêng, có thực, hiểu biết vô tận, ý chí vô tận, và tuyệt hảo vô tận, tuyệt
đối đơn thuần, bất biến, hạnh phúc tự chính Ngài và bởi chính Ngài, và tuyệt đối
cao hơn tất cả những gì được hình thành hay có thể hình thành mà không do Ngài.
Trong sự tuyệt hảo vô cùng của Ngài, mọi loài có sự hiểu biết thấp kém hơn
không thể thấu hiểu được Ngài, mặc dù có thể nhận biết sự hiện diện của Ngài
như Ðấng Tạo Hóa và Chúa trời đất, toàn năng, đời đời, bao la, và khác với tạo
vật. Ðó là điều tôi muốn nói về Thiên Chúa.
6. Hãy cho tôi một bằng chứng
về sự hiện diện của Thiên Chúa. Tôi chưa bao giờ thấy một bằng chứng nào, vì
tôi không chấp nhận Phúc Âm.
Bạn muốn nói gì về bằng chứng.
Một số người nghĩ rằng bằng chứng là phải xem thấy hay sờ thấy, như một con thú
nhìn thấy đồng cỏ và đến ăn cỏ. Nhưng con người thì không phải thú vật. Họ có
lý trí, và có thể nhận thức được bằng chứng qua trí tuệ. Thí dụ, bằng chứng về
sự mỹ miều của hội họa hay âm nhạc được trí óc con người nhận biết, chứkhông phải
bằng giác quan. Một con vật có thể nghe cùng một loại âm thanh, hay thấy cùng
loại mầu sắc, nhưng nó không bàng hoàng vì sự hoà hợp của mầu sắc, tiếtđiệu hay
sự cân xứng của bố cục bức tranh hay bản nhạc. Hoàn toàn đặt Phúc Âm ra ngoài,
riêng lý trí không thôi cũng có thể khám phá ra đủ bằng chứng để đảm bảo sự hiện
hữu của Thiên Chúa.
7. Không kể đến Phúc Âm,
đâu là bằng chứng Thiên Chúa hiện diện?
Có nhiều dấu hiệu, nhưng
sau đây là tóm lược vài điều chính yếu:
Thứ nhất là từ tương quan
nhân quả. Vũ trụ, với tất cả những giới hạn của nó, không thể tự nó mà có. Nó
không thể tự xuất hiện với tất cả các quy luật như chiếc cầu Golden Gate tự
dưng xuất hiện, hay như một cái đồng hồ tự nó ráp các cơ phận vào với nhau mà
không cần đến thợ đồng hồ. Cùng nguyên tắc ấy, nếu không có Thiên Chúa, thì sẽ
không có bạn để tranh luận về sự hiện diện của Ngài.
Thứ hai lấy từ sự
tin tưởng phổ quát, hoặc còn gọi là trực giác của con người. Nhờ trực giác của
con người, dù người lớn hay trẻ em, ai ai cũng biết thực phẩm là cho vào miệng.
Dấu tích những công trình của Thiên Chúa thì rõ ràng ghi khắc trên tạo vật, và
trên con người, là loài thượng đẳng, đến nỗi mọi dân tộc đều có khuynh hướng
tin rằng có Thiên Chúa. Chân lý này là điều sở hữu của con người. Nói cách
khác, người ta không phải tự thuyết phục mình là có Thiên Chúa. Nhưng người ta
cố tự thuyết phục là không có Thiên Chúa. Tuy nhiên chưa ai tìm được một lý do
có giá trị về điều đó. Loài người không muốn đi theo ý tưởng của Thiên Chúa, họ
chỉ muốn vượt ra ngoài.
Ý thức về bổn phận luân lý
chứng thực những lý lẽ sau. Mỗi một người đều có nhận thức những gì là đúng hay
sai. Khi một người làm điều sai, trong thâm tâm họ biết như thế. Một cái gì đó
như khiển trách lối cư xử của họ. Họ biết là họ đã đi ngược với tiếng nói bên
trong. Ðó là tiếng nói lương tâm, ra lệnh cho chúng ta phải tuân theo luật lệ
mà không do chúng ta làm ra, và cũng không ai có thể đặt ra luật lệ ấy, vì
lương tâm sẽ lên tiếng dù người khác có biết đến hành động của chúng ta hay
không. Tiếng nói này thường ngược lại những gì chúng ta muốn thi hành, cảnh cáo
chúng ta trước, và kết án chúng ta sau khi vi phạm. Luật lệ mà lương tâm lên tiếng
cho thấy có đấng làm ra luật lệ đó và đã viết vào tâm hồn chúng ta. Và chỉ có
Thiên Chúa mới làm được điều ấy, do đó chắc chắn Ngài phải hiện diện.
Sau cùng sự công bằng đòi hỏi
phải có một Thiên Chúa. Chính cái ý thức công bằng của con người, đưa đến việc
thành lập các toà án, cần có một Thiên Chúa chí công. Chúng ta không thể tự tạo
ra ý thức công bằng. Nó đến từ ai đó đã dựng nên chúng ta, và không ai có thể
cho đi cái mà họ không có. Nhưng sự công bằng không thể nào luôn luôn được con
người thể hiện ở thế giới này. Là nơi người tốt lành luôn đau khổ, và người ác độc
luôn thành công. Và, dù cán cân công lý của loài người luôn luôn sái lệch, thì
một ngày nào đó, công lý sẽ được thể hiện bởi một Thiên Chúa chí công, là người
chắc chắn phải hiện diện.
8. Ông là một người Công
Giáo, lý luận về đấng Tạo Hóa. Tôi, một người duy lý, xin hỏi, Ai dựng nên đấng
tạo hóa tự hữu?
Ðó không phải là câu hỏi hợp
lý. Tôi nói vũ trụ hiển nhiên phải được tạo dựng nên, và có tạo vật thì phải có
một Tạo Hóa là đấng tự mình mà có (tự hữu), nếu không vấn đề sẽtiếp tục mãi, vì
cả một chuỗi không cùng của các hữu thể phụ thuộc vào nhau thì không thể nào giải
thích được về chính nó cũng như bất cứ hữu thể nào khác nằm trong chu trình đó.
Thật hợp lý để lý luận về đấng tự hữu. Không hợp lý để hỏi: Ai dựng nên đấng tự
hữu? Thiên Chúa không phải là tạo vật. Nếu Ngài được dựng nên, Ngài phải là một
tạo vật và phải có đấng tạo hóa. Ðấng tạo nên Ngài phải là Thiên Chúa, và không
phải là chính Ngài. Là tạo vật thì phải có khởi đầu và phải có chấm dứt. Có
sinh thì có tử. Nhưng Thiên Chúa luôn luôn hiện hữu. Ngài không có khởi đầu, và
cũng không ngừng hiện hữu. Ngài hằng hữu.
9. Không cần phải bàn đến
công lý ở đời sau. Ngay tự đời này, ở hiền thì gặp lành, ở dữ thì gặp ác.
Không hẳn là như vậy. Ý thức
sống đạo hạnh không giúp gì cho những người có xu hướng bất công và những người
không thích lối sống đó. Cũng thế, người đồi bại không luôn luôn hối hận. Và
nhiều người cứng lòng không muốn hối hận. Phải có sự công bằng một ngày nào đó,
ở đời sau, và qua bàn tay Thiên Chúa.
10. Nếu tôi chân thành tin
tưởng là không có Thiên Chúa, mà lại có Thiên Chúa, thì sự vô tri bất khả triệt
ấy (không biết mà không muốn bị thuyết phục) có giúp tôi được cứu rỗi không?
Sự vô tri đó không thể
không vượt qua được. Bạn có thể khắc phục được điều đó. Lý trí tựnhiên của con
người cho thấy có Ðấng Tạo Hóa, khi bạn ngăn chặn ý niệm tự nhiên ấy, và cho rằng
không có tôn giáo thì bạn đã vi phạm lý trí của bạn. Nếu bạn đừng chèn ép lý
trí và để tự nhiên thì nó sẽ hướng về Nguyên Nhân Tối Thượng của mọi loài, như
kim nam châm luôn luôn xoay về cực của trái đất. Triết gia Pascal có lý khi nói
có hai hạng người, một là những người sợ mất Thiên Chúa, và hai là những người
sợ tìm thấy Ngài.
11. Trong cuốn sách tôi đọc
có đề cập đến "Pascal's Wager"(Canh Bạc của Pascal) nhưng không giải
thích nhiều. Tôi nghĩ điều ấy liên hệ đến việc chứng minh sựhiện hữu của Thiên
Chúa. Ông có thể cho biết thêm?
Ðược gọi là "Pascal's
Wager" vì do nhà triết học Công Giáo là ông Blaise Pascal (1623-1662) nghĩ
ra. Ðó là một phương pháp hộ giáo (biện hộ tôn giáo) dưới hình thức sự đánh cuộc,
nhắm đến người vô thần và người bất khả tri giáo về vấn đềhiện hữu của Thiên
Chúa và về thiên đàng và hoả ngục. Ưu điểm của "Pascal's Wager" là nó
đề cập thẳng đến điều mà người vô thần tôn thờ,đó là lý trí.
Lý luận của Pascal đề cập đến
một con người tiêu biểu của trần gian coi việc kiếm tiền và vui thú, không như
một phương tiện để đạt đến cùng đích, mà coi đó là mục đích thực sự của đời sống.
Ngay cả khi người ấy từ chối không tin vào định mệnh tối hậu của mình, Pascal cả
quyết rằng người ấy không thể tránh khỏi canh bạc cuộcđời. Trên thực tế, người ấy
phải chọn một trong hai mệnh đề sau, hoặc (A) đời sống có mục đích (Thiên Chúa
dựng nên chúng ta để sống với Ngài); hoặc (B) không có gì cả. Con người không
thể từ chối canh bạc này, vì nếu từ chối họ đương nhiên đồng ý rằng đời sống
không có mục đích.
Dưới hình thức này hay hình
thức khác, sự ích kỷ của con người luôn luôn thúc giục họ chọn mệnh đề
"B". Pascal chứng minh rằng chọn mệnh đề "A" thì hợp lý
hơn, dù với quan điểm của người tư lợi. Ông nói: nếu bạn chọn mệnh đề "B
" mà "A " là sự thật, thì bạn mất phần thưởng đời đời. Nhưng nếu
bạn chọn mệnh đề "A" mà "B" là sự thật, thì bạn chỉ mất một
ít vui thú ở đời này mà thôi.
Tư tưởng của con người thời
nay được ông Pascal diễn tả qua những lời sau: "Tôi không biết tôi từ đâu
đến và đi về đâu. Chỉ biết khi từ bỏ đời này, tôi sẽ vĩnh viễn hoặc rơi vào sự
hư không, hoặc rơi vào bàn tay thịnh nộ của Thiên Chúa [Heb. 10:31] ... Và rồi
tôi đi đến kết luận là phải trải qua những ngày trong đời mà không lưu tâm đến
những gì sẽ xảy ra cho tôi. Có lẽ tôi sẽ tìm thấy một giải pháp nào đó cho sự hồ
nghi của tôi, nhưng tôi không muốn khó khăn ... Tôi muốn tiến tới nhưng không
muốn nhìn xa và cũng chẳng sợ hãi gì khi nhìn đến một biến cố lớn lao, đó là đối
diện với cái chết một cách thờ ơ, mà nó cũng không chắc chắn như tương lai vĩnh
cửu của đời tôi [Pensees III, 194].. ." Nói cách khác, Pascal không nghĩ
đó chỉ là một thảm kịch luân lý nhưng còn là một ngớ ngẩn về tri thức khi chọn
mệnh đề "B," đó là từ chối không chấp nhận đời sống có mục đích. Ông
tin rằng một người bình thường sẽ có đức tin khi họ từ bỏ vui thú. Ít nhất họ
phải tìm kiếm sự thật. "Theo chủ nghĩa may rủi, bạn phải tha thiết tìm kiếm
chân lý, vì nếu bạn chết mà không tôn thờ Nguyên Nhân Ðích Thực, bạn sẽ tiêu
vong. Bạn nói, 'Nếu Thiên Chúa muốn tôi thờ phượng Ngài, thì Ngài phải cho tôi
những dấu chỉ.' Quả thật, Thiên Chúa đã có những dấu chỉ [Rom. 1:18-21;
2:14-16]; nhưng bạn làm như không biết ."
Cha Jospeh H. Cavanaugh, giải
thích rõ hơn về "Pascal's Wager" trong cuốn "Evidence for Our
Faith" (có thể hỏi mua ở Catholic Answer, P.O. Box 17490, San Diego, CA
92177 giá $19.95).
12. Làm sao ông biết Thiên
Chúa hằng hữu?
Vì nếu Thiên Chúa có khởi đầu
thì trước khi Ngài khởi đầu phải là hư không. Hư không, không có gì để dựa vào
và cũng không có khả năng nào để biến chuyển, thì không thể nào biến đổi bản chất
hư không của nó thành một điều gì có thực. Nhưng hiển nhiên là có một điều gì,
và không thể nào có quãng thời gian hư không. Thiên Chúa phải luôn luôn hiện hữu,
và nếu không ai trách nhiệm về sự khởi đầu của Ngài, thì không ai có thể đưa sự
hiện hữu của Ngài đến sự chấm dứt. Ngài luôn luôn tồn tại. Quả thật Thiên Chúa
đã tuyên bố chính Ngài là một Chủ Thể hằng hữu khi Ngài nói với Môisen, Ta là Ðấng
Tự Hữu (I Am Who Am).
13. Chúng ta đã đạt được sự
hiểu biết trọn vẹn về Thiên Chúa chưa, hay chúng ta đang tiến đến sự trọn vẹn của
chân lý?
Sự mặc khải trọn vẹn về những
điều mà Thiên Chúa muốn cho loài người biết thì đã được thể hiện qua Ðức Kitô.
Tuy nhiên, chưa ai thấu hiểu được đầy đủ chân lý mà Ðức Kitô đã tiết lộ, và khi
chúng ta ngày càng tăng tiến trong sự hiểu biết giáo lý của Ngài, chúng ta càng
tiến gần hơn đến chân lý toàn vẹn mà loài người ở trái đất này có thể hiểu được.
Tôi muốn nói về kiến thức mà một cá nhân có thể đạt được. Toàn bộ chân lý được
chất chứa trong đức tin mà Ðức Kitô đã giao phó cho Giáo Hội Công Giáo. Sự hiểu
biết hoàn toàn đầy đủ chỉ có thể xảy ra khi diện kiến Thiên Chúa ở thiên đàng.
14. Làm thếnào mà Thiên
Chúa vừa công bằng và vừa thương xót được? Công bằng có nghĩa thưởng phạt xứng
đáng, nhưng thương xót có nghĩa cho nhiều hơn họ đáng được. Ðịnh nghĩa như thế,
một người công bằng thì không có lòng thương xót.
Vấn đề ở đây là sự nhầm lẫn
ý nghĩa của chữ "công bằng." Công bằng với một người, theo định
nghĩa đó, là cho họ điều mà họ đáng được. Vậy nếu tôi nợ một người nào đó, tôi
sẽ công bằng khi trả lại món nợ ấy, nhưng điều này không ngăn cản tôi vượt quá
điều mà sự công bằng đòi hỏi để cho thêm người ấy.
Ðây là câu trả lời căn bản
cho vấn đề trong bao thế kỷ. Thánh Tôma Aquinô nói, "Thiên Chúa hành động
một cách từ bi, không bởi đi ngược với sự công bằng của Ngài, nhưng bởi thể hiện
một điều gì đó hơn cả sự công bằng; như thế một người nợ có 100 quan tiền mà trả
tới 200 quan, thì ông ta không trái với sự công bằng, nhưng ông đã hành động một
cách tự do hay một cách từ bi.
Trường hợp này cũng giống
như một người tha thứ cho người lỗi phạm đến họ, vì khi tha thứ có thể nói họ
đã ban tặng một món quà. Do đó, Thánh Phaolô tông đồ gọi sự khoan dung là sự
tha thứ: 'Hãy tha thứ cho nhau, như Ðức Kitô đã tha thứ cho anh chịem' [Eph.
4:32]. Vậy, rõ ràng là lòng thương xót không tiêu diệt sự công bằng, nhưng
trong một ý nghĩa, nó là sự toàn vẹn của sự công bằng. Bởi thế có lời chép,
'Lòng thương xót tự nó cao hơn sự xét xử' [Jas. 2:13]" (Summa Theologiae
I:21:3 ad 2).
15. Tại sao các thần học
gia Kitô Giáo nói rằng Thiên Chúa thì tuyệt đối thương xót trong khi Ngài vẫn
trừng phạt con người? Nếu Ngài tha thứ tất cả mọi người thì Ngài có tuyệt đối
thương xót hơn không?
Không. Chữ "tuyệt đối
" được hiểu theo ý nghĩa khác nhau. Có khi nó có nghĩa "hoàn
toàn" hay "trong mọi trường hợp." Nếu đó là ý nghĩa mà qua đó
Thiên Chúa hoàn toàn thương xót, thì Ngài phải tha thứ tội lỗi trong mọi trường
hợp, do đó tha thứ cho tất cả mọi người. Nhưng "tuyệt đối" có ý nghĩa
khác -- tỉ như nó cũng có thể có nghĩa "trong phương cách tốt nhất ."
Thí dụ một người cần 25 đô
la để khỏi bị ngồi tù, và họ đến xin tôi giúp đỡ. Tôi biết nếu tôi cho họ 25 đô
la thì họ sẽ không bị tù, học được một bài học, và mọi sự sẽ tốt đẹp. Nhưng tôi
cũng biết nếu cho họ hơn 25 đô la, thì họ sẽ không học được gì mà còn dùng số
tiền dư để làm bậy. Vậy chúng ta nghĩ gì giữa việc cho họ 25 đô la hoặc cho nhiều
hơn?
Giả như tôi không nợ họ một
đồng nào, việc cho họ bất cứ số tiền nào cũng đều là hành độngđộ lượng, nhưng
hành động nào được coi là thí dụ tốt nhất của sự độ lượng? Trên một quan điểm
chúng ta có thể lý luận rằng cho nhiều là độ lượng nhiều và do đó hoàn toàn hay
"tuyệt đối" độ lượng hơn. Trên một quan điểm khác, chúng ta có thể lý
luận rằng cho họ ít tiền thì tốt hơn và như thế tuyệt đối độ lượng hơn (độ lượng
trong phương cách tốt nhất).
Thí dụ này đem lại cho
chúng ta một sự hiểu biết sâu sắc về bản chất của nhân đức. Thi hành một điều gì
được coi là nhân đức thì đừng chỉ thi hành theo mức độ nhiều ít, nhưng theo
phương cách tốt hơn.
Thiên Chúa tuyệt đối thương
xót mà qua đó Ngài tỏ lộ từ bi một cách tuyệt đối. Ðiều này có nghĩa Ngài
thương xót đúng mức, với động lực chính đáng, và trong trường hợp chính đáng.
Nhưng có một số người và một số trường hợp không thích đáng. Thật không thích hợp
để tha thứ tội lỗi của một người khi họ ngoan cố và không hối lỗi. Có thể thích
hợp để liên tục giúp họ hối lỗi, nhưng không thích hợp tha thứ cho họ mà họ chưa
thú nhận lỗi lầm.
Thiên Chúa tuyệt đối thương
xót với ý nghĩa Ngài thương xót trong phương cách tốt nhất, chứ không phải với ý
nghĩa Ngài tha thứ mọi tội lỗi của con người. Một số tội lỗi (mà người ta không
hối lỗi) thì không thích hợp để tha thứ, bởi thế chính sự thương xót của Thiên
Chúa đã ngăn cản Ngài không tha thứ cho họ.
16. Khi nghĩ về sự đau khổ
và sự đói khát của bao người trên thế giới này, ông nghĩ gì về Thiên Chúa?
Không thể thấu hiểu mọi chi
tiết của vũ trụ không có nghĩa không có Thiên Chúa, nhưng nó nói lên sự hạn hẹp
của trí óc con người. Tuy nhiên, trí óc con người có thể đề ra một vài quy tắc
nhằm giải đáp những khó khăn.
A. Thứ nhất, sự dữ là phủ nhận
hay thiếu thốn sự thiện, và nếu có sự dữ trong trần gian, thì cũng phải có sự
thiện mà nó chỉ có thể giải thích bởi sự hiện hữu của Thiên Chúa.
B. Thứ hai, sự giao động của
cuộc đời luôn đổi thay không thể ảnh hưởng đến sự hiện diện của Thiên Chúa. Tôi
muốn nói khi mọi sự tốt đẹp thì bạn cho rằng có Thiên Chúa, nhưng khi có những
sai lạc thì bạn cũng không thể từ chối sự hiện diện của Ngài. Nếu Thiên Chúa hiện
hữu trước khi có sự sai lạc, thì Ngài vẫn hiện hữu bất kể đến sự bất hạnh của
cá nhân. Hãy để ý chữ cá nhân. Nhìn vào toàn thể loài người, chúng ta thấy đời
sống là một hỗn hợp của những điều thuận tiện và bất tiện. Khi chúng ta hạnh
phúc, người khác lại đau khổ. Khi chúng ta đau khổ, người khác lại hạnh phúc.
Và chúng ta không thể nói Thiên Chúa hiện hữu vì có những người hạnh phúc, và đồng
thời Ngài không hiện hữu vì có những người đau khổ. Chúng ta không thể có cái
nhìn cá nhân và cục bộ, nhưng phải có một cái nhìn tổng quát.
C. Thứ ba, và nhất là sự
phân phối thực phẩm không đồng đều của thế giới khiến một số người phải chết
đói, không phải là sự quan phòng của Thiên Chúa sai lạc. Ðó là lỗi quản trị của
loài người. Trong khi có người chết đói thì thế giới vẫn sản xuất đầy đủ lúa gạo,
trái cây, thịt cá, và len sợi để nuôi ăn và có áo mặc cho loài người. Thiên
Chúa vẫn ban đầy đủ cho mọi miệng ăn. Nhưng Ngài trao thế giới này cho loài người
quản trị, và đó là sự quản trị tệ hại mà họ phải sửa sai hơn là đổ lỗi cho
Thiên Chúa.
17. Khi đểsự phân phối
không đồng đều xảy ra, Thiên Chúa có công bằng không?
Hầu như không thể có một giải
đáp thoả đáng nếu chỉ có đời này. Thiên Chúa để những điều ấy xảy ra chỉ vì
Ngài biết có một đời sống tương lai để Ngài chấn chỉnh và đền bù mọi bất công.
Trong khi chờ đợi cuộc sống ấy, từ những bất hạnh Ngài đưa ra một bài học, để dạy
loài người đừng hoàn toàn trông cậy vào thế giới này như thể không có đời sau,
và sự đau khổ giúp đền bù tội lỗi nhân loại. Nếu chúng ta không thể hoàn toàn hạnh
phúc ở đời này, thì hãy sống chắc chắn cho hạnh phúc đời sau.
18. Nếu Thiên Chúa là Ðấng
toàn năng thì Ngài có thể ngăn chặn núi lửa, động đất, v.v. mà những thiên tai
này giết hại người lành cũng như kẻ dữ.
Nếu Ngài không toàn năng
thì không có núi để phun lửa, và cũng không có loài người để bị thương tích hay
bị chết. Những biến cố này xảy ra theo định luật tự nhiên do Thiên Chúa thiết lập,
mà Ngài không muốn can thiệp vào sự vận hành của nó vì trí óc loài người sẽ thắc
mắc. Cũng thế, cái chết của những người bất hạnh không chấm dứt sự hiện hữu của
họ. Sự chuyển tiếp từ thân phận con người trần thế sang tình trạng tương lai
thì cũng bình thường như sự chuyển tiếp từ giai đoạn thơ ấu sang giai đoạn trưởng
thành. Cái chết là điều tự nhiên của mọi người, và Thiên Chúa cho phép điều ấy
xảy đến cho loài người trong nhiều phương cách khác nhau.
19. Nếu Thiên Chúa nhân từ,
công bình, và toàn năng, tại sao Ngài lại để sự xấu xa về luân lý hoặc tội lỗi
xảy ra?
Vì Thiên Chúa là Tình Yêu,
Ngài đòi hỏi tình yêu tự hiến của con người, chứ không phải một tình yêu ép buộc.
Vì Ngài công bằng, Ngài không tước đoạn của con người sự tự do ý muốn là điều hợp
với bản tính hữu lý của Ngài. Ðiều này cũng không ngược với sự toàn năng của
Thiên Chúa, vì quyền năng của Ngài không để thi hành những điều mâu thuẫn. Loài
người không thể tự do yêu thương và phục vụ Thiên Chúa nếu không được tự do khước
từ và phản bội Ngài. Chúng ta không thể bắt cá hai tay. Ngay cả Thiên Chúa, nếu
Ngài muốn loài người được tự do, Ngài không thể lấy đi khả năng chọn sự dữ của
loài người. Nếu Ngài áp đặt sự thiện hảo, Ngài cướp đi sự tự do. Nếu Ngài cho
phép được tự do, Ngài phải cho phép có sự dữ, mặc dù Ngài cấm làm sự dữ. Ðó là
phẩm giá của con người khi họ làm chủ được định mệnh của mình thay vì sống như
cây cỏ phải theo luật tự nhiên. Quả thật, con người đã lạm dụng sự tự do, và hậu
quả là tội lỗi và sự hung ác. Nhưng không thể ban cho loài người món quà tự do
và phẩm giá khi làm chủ được định mệnh của mình mà không liều cho phép có những
thất bại.
20. Là Ðấng toàn năng, công
bằng, và nhân hậu, tối thiểu Thiên Chúa phải để mọi người có cơhội đồng đều được
hưởng sự sung túc của thế gian.
Là Ðấng toàn năng, thì
không có lý do gì Thiên Chúa lại phải thi hành mệnh lệnh của chúng ta như thể
chúng ta có toàn quyền.
Là Ðấng công bằng, Thiên
Chúa không thể cho chúng ta một món đồ và để chúng ta nghĩ rằng đó là điều thực
sự có giá trị khi không phải như vậy.
Là Ðấng từ bi, Ngài sẽ
không để con người có những của cải giầu sang mà chúng có thể gây nên nhiều khó
khăn trên con đường cứu chuộc. Chúng ta là người Kitô, và Kitô Hữu là môn đệ của
một Thầy bị đóng đinh trên thập giá. Chúng ta không có quyền than phiền nếu
chúng ta cũng phải chịu đau khổ.
21. Bạn nói sao khi Thiên
Chúa để các trẻ em tật nguyền phải sinh ra, với một cuộc đời bất hạnh trước mặt?
Thiên Chúa chắc chắn thiện
hảo, và nếu Ngài để bất cứ sự dữ nào xảy ra chỉ vì Ngài biết rằng từnhững sự dữ
ấy sẽ có sự tốt lành lớn lao hơn về sau. Loài người lạm dụng sự tự do, bỏ rơi
Thiên Chúa, và thay vì tìm thấy hạnh phúc thì lại gặp sự bất hạnh. Thật tốt để
có sự công bằng, và sự công bằng của Thiên Chúa cho phép điều bất hạnh xảy ra.
Cũng vậy, trong sự khôn ngoan của Ngài, Ngài có thể để một người sinh ra tật
nguyền là vì nếu có sức khoẻ và được lành mạnh, họ có thể rơi vào lạc thú khiến
mất mát đời đời. Như thế, một người yếu ớt thì khó có thể phạm tội, và đối với
chúng ta thì đó lại là sự thương xót khi họ được sinh ra yếu ớt. Người đáng
thương, dù tật nguyền về phương diện tâm thần hay thể xác, cả đời họ không hẳn
là bất hạnh và đau khổ. Chúng ta phải nhớ "cả đời" không có nghĩa chỉ
ở đời này, mà còn liên tục cho đến đời sau, là nơi tất cả mọi người được chấn
chỉnh.
Chúng ta có thể tự hỏi,
"Nếu Thiên Chúa thiện hảo, tại sao Ngài để Con Ngài bị hành hạ ?"Tội
lỗi là sự dữ, chứ không phải sự đau khổ. Ðức Kitô tìm thấy hạnh phúc khi chứng
tỏ tình yêu của Ngài bởi chịu đau khổ, là điều tốt lành hơn sự lành mạnh thể
xác. Và sự bất hạnh của thế giới này đã đưa biết bao người về với Thiên Chúa, họ là
những người đã từng sống sung sướng và tự lập nhưng không thể giải quyết được vấn
đề đau khổ tự nhiên. Vì lý do này mà chúng ta mới có thể nhận ra sự thiện hảo của
Thiên Chúa bên trong những đau khổ.
22. Nếu vậy, ý Chúa muốn con
người phải đau khổ vì bệnh tật kinh khủng như bệnh ung thư?
Chúng ta phải phân biệt giữa
ý muốn tuyệt đối và ý muốn dung thứ của Thiên Chúa. Ngài tuyệt đối muốn mọi sự
tốt lành xảy ra. Nhưng Ngài cho phép sự đau khổ xảy ra nếu Ngài thấy trước điều
đó sẽ có hậu quả tốt. Ngài tuyệt đối muốn tôi nên thánh. Nếu Ngài thấy trước là
tôi sẽ lạm dụng sức khoẻ để phạm tội và mất linh hồn, vì lòng thương xót, Ngài
có thể để sức khoẻ của tôi nên tồi tệ, và giúp tôi tìm đến Ngài nếu không Ngài
sẽ mất tôi. Sẽ không có đau khổ nếu loài người không phạm tội. Thiên Chúa không
muốn có tội lỗi, nhưng khi cho loài người được tự do, Ngài cho phép có tội lỗi
và hậu quả của nó. Sự cho phép này không quan trọng bằng sự tước đoạt tự do của
chúng ta.
23. Tôi bị nghèo là vì sự
chèn ép của cuộc sống bất công..., chứ không phải vì lòng thương xót của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã cho phép điều
đó, nhưng trước hết nó xảy ra bởi cách đối xử sai lầm của con người, với tất cả
thiện ý; thứ đến, bởi lỗi của cả hai bên, chủ nhân và nhân công; thứ ba, do hoàn
cảnh bắt buộc. Khi cố gắng giải quyết những vấn đề này, nó không ngược với ý muốn
tuyệt đối của Thiên Chúa. Nhưng, đồng thời, sẽ không có công ăn việc làm, và đó
cũng là điều mà Ngài không muốn.
24. Có thể nào Thiên Chúa
làm cho đời sống dễ dãi hơn, thay vì làm mọi sự quá khó khăn?
Không phải mọi sự đều khó
khăn. Chỉ có một số. Những khó khăn ấy được trở nên dễ dàng hơn nhờ ơn sủng mà
quá nhiều người tự ý khước từ. Không thể nào hoàn toàn không có sự khốn khó, vì
Thiên Chúa có quyền đòi hỏi chúng ta, bằng mọi giá, phải vượt qua những thương
tích của thói hư tật xấu, tội lỗi, và những thương tích khác. Những than phiền
của loài người cũng giống như của một người tự cắt cổ mình, rồi đổ lỗi cho bác
sĩ đã làm họ đau khi khâu lại vết thương.
25. Nhưng đời sống dường
như ngày càng khó khăn và đau khổ hơn.
Lịch sử nhân loại có những
lúc đau khổ và những lúc sung sướng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, những thử
thách không có nghĩa cuộc đời càng thêm tệ hại. Nó có thể có ý nghĩa tốt. Chiều
theo bản tính thấp hèn của chúng ta thì dễ; chống lại bản tính ấy mới khó. Nếu
bạn chủ trương chỉ thi hành những điều dễ dãi và vui thú trong đời, bạn sẽ
không bao giờ thực sự là một con người. Ðức Kitô đã đến để nâng cao phẩm giá
con người, và Ngài sẵn sàng hỗ trợ, ban ơn cho bất cứ ai chịu gian khổ để tập
luyện nhân đức. Ngài đặc biệt ban ơn cho những ai kêu cầu cách hợp lý.
26. Tại sao Thiên Chúa lại
để những người phục vụ Ngài sống nghèo khổ, trong khi những người độc ác, người
vô tôn giáo lại sống thoải mái?
Không phải lúc nào cũng vậy.
Tuy nhiên, không khó để hiểu điều ấy. Người độc ác không xứngđáng để được chia
sẻ sự đau khổ với Ðức Kitô. Cũng thế, mọi người cũng có lúc làm điều thiện.
Không ai hoàn toàn xấu xa. Bởi thế, sự công bằng của Thiên Chúa sẽ thưởng cho sự
tốt lành tự nhiên bằng sự thịnh vượng tự nhiên, và có thể đó là tất cả những gì
mà họ được. Vào lúc phán xét, có thể họ được bảo rằng, "Ngươi đã được thưởng
những gì tốt lành ngươi làm, và bây giờ là lúc ngươi phải trả lời về những điều
độc ác của một đời sống vô thần ." Ngược lại, người kính mến Thiên Chúa
không được những phần thưởng mau hư nát, thiếu giá trị, nhưng sẽ được đầy đủ hạnh
phúc siêu nhiên, là điều duy nhất thực sự có giá trị. Nếu Ðức Kitô hứa ban cho
chúng ta hạnh phúc đời này, thì chúng ta mới có thể than phiền khi thấy sự giàu
sang của người không có đức tin. Nhưng Ngài đã hứa gì? Ngài hứa những gì mà
chính Ngài đã lãnh nhận, sự đau khổ ở đời này, và hạnh phúc ở đời sau. Môn đệ
thì không trọng hơn Thầy.
27. Trong những câu trả lời
ông đã mặc nhiên công nhận sự tự do của ý muốn, tình trạng tội lỗi của loài người,
sự cứu chuộc của Ðức Kitô, ơn sủng, và định mệnh đời đời của loài người!
Ðúng như vậy. Ðó là những dữ
kiện, và không thể giải quyết vấn đề nếu không dựa trên dữ kiện. Ðồng thời,
không có dữ kiện, chúng ta không thể tìm thấy một giải pháp hợp lý về sự quan
phòng của Thiên Chúa; với các dữ kiện ấy, một giải pháp, dù không đầy đủ, thì tối
thiểu nó hợp lý và dễ hiểu. Thế giới với những đau khổ của nó thì khó có thể chứng
minh sự hiện diện của Thiên Chúa; nhưng nếu không có Thiên Chúa, thế giới ấy lại
càng tệ hại hơn, vì chúng ta phải đau khổ trong sự tuyệt vọng. Kitô Giáo không
khước từ sự đau khổ, nhưng nó có thể đem lại hạnh phúc trong sự đau khổ, và giải
pháp thực tế này là giải pháp đích thực mà Thiên Chúa ban cho những người thiện
tâm.
28. Có đúng là sách Giáo Lý
Công Giáo chỉ dành cho tu sĩ và người dân không nên đọc vì nó khó hiểu? Ðó là
điều mà cha phó xứ của tôi nói trên tòa giảng. Cha ấy nói rõ là giáo dân nên
quên đi và để cho các chuyên gia nghiên cứu xem cuốn đó có giá trị hay không.
Vị linh mục của bạn bị lạc
đường. Cuốn giáo lý mới của Giáo Hội có thể và phải được mọi người Công Giáo đọc.
Ngôn ngữ trong sách thì không phải đều khó hiểu, và một người Công Giáo trung
bình có thể lĩnh hội được.
Sách giáo lý được trình bày
theo một thứ tự có hệ thống với nhiều trích dẫn từ Kinh Thánh, từ các Giáo Phụ,
và từ các công đồng. Ðiều đặc biệt hữu ích là phần tóm lược ở mỗiđoạn. Giáo Hội
mong ước mọi người Công Giáo -- nhất là giáo dân -- học hỏi giáo lý như một
phương tiện để gia tăng kiến thức về đức tin.
Nhiều người Công Giáo bị lầm
lẫn về những gì Giáo Hội thực sự giảng dạy vì họ được nghe nhữngđiều mâu thuẫn
từ các linh mục, tu sĩ nam nữ, và những người khác. Có lẽ lý do khiến một số
người chống đối việc ban hành cuốn giáo lý này là vì họ không còn có thể nói rằng
Giáo Hội đã "thay đổi đường lối" về những vấn đề như luyện ngục hay
tín điều về Ðức Mẹ, hoặc cho rằng không có những giáo huấn chính thức về các vấn
đề như ngừa thai và đồng tính luyến ái.
Nguồn: Người Tín Hữu.