Đức Tin là nhân đức nổi bật
nhất trong cuộc đời của Đức Mẹ. Bà thánh
Isave lớn tiếng ngợi khen đức tin của Đức Mẹ.
Giáo Hội tuyên xưng Đức Mẹ
là Mẹ của các tín hữu, nghĩa là Mẹ của các kẻ tin.
Thánh phụ Âugustinô quả quyết chính do đức tin mà Đức Mẹ
đã sinh ra Đấng Cứu Thế: “Ngài thụ thai Con Thiên Chúa bằng đức tin và Ngài sinh hạ Con Thiên Chúa cũng bằng đức
tin. ”
Đức Mẹ luôn sống chìm đắm
trong biển sâu thẳm của đức tin.
Trong suốt cuộc đời dài của
mình trên trần thế - đính hôn khi thanh nữ, lìa đời lúc luống tuổi - Đức Mẹ
luôn tin tưởng mãnh liệt vào Thiên Chúa,
luôn nhìn thấy mọi sự xảy ra trong cuộc đời mình dưới ánh sáng đức
tin.
Mặc dầu tổng lãnh thiên thần
Gabirie được Thiên Chúa truyền phải làm
tất cả mọi sự để cho Đức Mẹ dễ tin: nào là thái độ hết sức cung kính, thánh thiện
và nghiêm trang của một thiên sứ từ trời được sai đến, - nào là nói đúng theo lời
các tiên tri từ xưa đã loan báo về Đấng Cứu Thế, nào là trưng ra phép lạ của
người chị họ Isave đã già cả son sẻ mà vẫn
sinh con, - nhưng Đức Mẹ, với lòng khiêm nhượng thẳm sâu, vẫn nhận thấy có điều
thật khó tin:
Một là người phàm trần như
Mẹ, thì làm sao được trở nên Mẹ của Con Thiên Chúa được;
Hai là một người nữ giữ
mình đồng trinh tuyệt đối như Mẹ, thì làm sao thụ thai được?
Những lời này không thể nào
thực hiện được theo sức loài người.
Dầu vậy, khi thiên sứ quả
quyết rằng không có việc gì mà Thiên Chúa toàn năng không làm được, thì Đức Mẹ
nhắm mắt tin vào Lời Chúa với tất cả mọi điều mạo hiểm, mọi sự nguy biến, mọi nổi
đau khổ hồn xác sẽ xảy ra trong cuộc đời
của mình.
Vì thế, sau hai tiếng vắn gọn
“Xin Vâng”, Đức Mẹ quyết sống trọn vẹn đức tin của mình: đức tin đó không hề
lay chuyển khi bị thánh Giuse hiểu lầm, khi bị hất hủi tại Bêlem, khi phải sinh
Con lạnh lẽo trong hang đá thô hèn, khi đứng lặng trên Núi Sọ dưới chân thập giá treo xác Con Mình.
Để sống đức tin và để chết trong đức tin của mình, Đức Mẹ đã luôn luôn
tìm cách chiến thắng ba thử thách nặng nề về đức tin mà Thiên Chúa gởi đến cho
bất kỳ những ai được Ngài ban đức tin cho.
Thử thách thứ nhất là
không thấy, nhưng vẫn phải tin.
Khi sinh Con Thiên Chúa, Đức
Mẹ không thấy bên ngoài có gì để tin đó là Con Thiên Chúa cao sang vô cùng: một
trẻ thơ yếu hèn, run lên vì lạnh, khóc lên vì yếu, nơi sinh thì thúi tha hôi
hám vì đây là nơi dành cho súc vật trú
đêm. Dù không thấy gì bên ngoài, Đức Mẹ vẫn tin mạnh mẽ đây là Con thật của
Thiên Chúa cao sang vô cùng.
Khi thấy Con mình chết bất
lực trên hai miếng gỗ lạnh lùng, bị người ta chê cười chế nhạo, bị môn đệ chạy
trốn bỏ rơi, không có gì là quyền năng vô biên của một vì Thiên Chúa. Dù không
thấy gì bề ngoài, Đức Mẹ vẫn tin mạnh mẽ đây là Con thật của Thiên Chúa quyền
năng vô cùng.
Thử thách thứ hai là không
hiểu, nhưng vẫn tin.
Dù biết mình được đầy ơn
Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ vẫn không hiểu được Lời Chúa một cách đầy đủ, nên Đức Mẹ
đêm ngày suy niệm Lời Chúa, ấp ủ Lời Chúa trong lòng, luôn cầu xin cho được hiểu
Lời Chúa mà đem ra thực hành trong cuộc sống. Vì thế, đời sống nội tâm của Đức
Mẹ rất sâu xa và mãnh liệt.
Thử thách thứ ba là thấy
những điều hoàn toàn trái ngược, nhưng vẫn tin. Biết Con mình là Con Thiên
Chúa toàn năng như lời quả quyết của thiên sứ Gabirie, nhưng Đức Mẹ chỉ thấy những
cảnh thất bại của Con mình: thất bại khi
sinh ra, phải chạy trốn; thất bại khi lớn khôn ở Nadarét, phải đổ mồ hôi
sôi nước mắt trong vai người thợ mộc nhọc nhằn; thất bại khi ra giảng đạo, bị mọi
người cuối cùng tìm cách xa lánh và bắt giết; thất bại khi chết nhục nhã trên
hai miếng gỗ, trơ trọi giữa trời và đất.
Dầu vậy, Đức Mẹ vẫn thờ lạy
Con Thiên Chúa trong hang đá Bêlem, vẫn tin Con Thiên Chúa trong vai một người
thợ mộc khó nghèo, vẫn tin Con Thiên Chúa
trong cái thân xác tiều tụy bị treo trên thập giá.
Đức tin là điều đặc biệt nhất
của người công giáo chúng ta.
Khi xin được chịu phép Rửa
Tội để trở thành con cái của Thiên Chúa, trở thành con cái của Giáo Hội, chúng
ta chỉ xin có một điều: xin cho được đức tin.
Đức tin làm cho chúng ta biết
được Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Chúa Giêsu dạy rõ: “Hễ ai
tin Tôi, thì không phải là tin Tôi, nhưng là tin Đấng đã sai Tôi.” (Ga 21,44)
Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Ngài đã sai Con Một của Ngài là Chúa Giêsu, đến với chúng ta. Chúa Giêsu dạy
chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, và dạy chúng ta ngày đêm luôn luôn cầu nguyện với Cha chúng ta trên trời: “Lạy Cha
chúng con ở trên trời”.
Điều hạnh phúc nhất của người
công giáo chúng ta là có Thiên Chúa là
Cha. Tất cả chúng ta đều có thể nói như thánh Philiphê xưa: “Lạy Thầy, xin tỏ
Chúa Cha cho chúng con biết; được như thế, chúng con thật hoàn toàn sung sướng.”(Ga
14,8)
Đức tin làm cho chúng ta được
sống đời đời.
Chúa Giêsu đã quả quyết như
vậy: “Sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và chân thật,
và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô.”(Ga 17,3).
Đối với người công giáo
chúng ta, đức tin dạy chúng ta biết cuộc
sống trên trần gian nầy chỉ là phần đầu của cuộc sống đời đời mà chúng ta sẽ được
sống sau khi chết. Đây là điều hết sức an ủi cho người công giáo chúng ta và
làm cho chúng ta luôn luôn vui sống trong cuộc đời tạm chóng qua này.
Lạy Đức Mẹ Maria, là mẫu
gương đức tin của chúng con, xin cho chúng con luôn sống theo gương đức tin của
Mẹ.
Đức Cậy
Sống trên đời này, chúng ta
gặp quá nhiều thử thách về đức cậy: có những cái quá buồn, làm tinh thần chúng
ta suy sụp, buông xuôi; có những cái quá cực, làm chúng ta ngã quỵ, không thể
nào ngóc đầu lên nỗi; có những cái quá đau, làm chúng ta chới với, điêu đứng;
có những cái quá lo, làm chúng ta quên ăn mất ngủ; có những cái quá sợ, làm
chúng ta bồn chồn và mãi mãi thao thức.
Trong suốt cuộc đời dài của
mình, Đức Mẹ cũng gặp những điều quá buồn: đó là khi Đức Mẹ bị thánh Giuse hiểu
lầm: “Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã đính hôn với
ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền
năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố
giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.” (Mt 1,18-19)
Đó là khi Đức Mẹ thấy Con
mình chết treo tất tưởi trên hai miếng gỗ lạnh lùng: “Đứng gần thập giá Đức
Giêsu, có thân mẫu Người,... Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt
biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người.
Nhắp xong, Đức Giêsu nói : “Thế là đã hoàn tất !” Rồi Người gục đầu xuống và
trút linh hồn.” (Ga 19, 25-30)
Dầu vậy, Đức Mẹ vẫn luôn
trông cậy vào Chúa, không để cho lòng mình quá buồn mà mất lòng trông cậy vào
Chúa.
Trong suốt cuộc đời dài của
mình, Đức Mẹ cũng gặp những điều quá cực: đó là khi vì quá cực nên bị hất hủi tại
Bêlem và phải sinh Con trong máng cỏ của súc vật ăn, hôi hám, chật hẹp: “Bà sinh
con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà
không tìm được chỗ trong nhà trọ.” (Lc 2,7)
Dầu vậy, Đức Mẹ vẫn luôn
trông cậy vào Chúa, không để cho những sự quá cực này làm cho mình mất lòng
trông cậy vào Chúa.
Trong suốt cuộc đời dài của mình, Đức Mẹ cũng
gặp nhiều điều quá đau lòng: đó là khi được Chúa Thánh Thần soi sáng cho biết
thế nào mình cũng phải hết sức đau khổ, nhất là đau khổ khi thấy Con yêu dấu
mình phải chịu thương khó và tử nạn: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ
cho nhiều người Israen vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người
đời chống báng - còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà - ngõ hầu
những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra.” (Lc 2,34-35 ); “Họ xin Philatô
cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống...
Khi đến gần Đức Giêsu và thấy
Người đã chết, họ không đánh giập chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm
vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra.” (Ga 19,31-34)
Dầu vậy, Đức Mẹ vẫn luôn
trông cậy vào Chúa, không để cho những sự quá đau lòng này làm cho mình mất
lòng trông cậy vào Chúa.
Trong suốt cuộc đời dài của
mình, Đức Mẹ cũng gặp những điều quá sợ: đó là nửa đêm đầy bóng tối đen đặc, phải
bồng Con chạy trốn ra nước ngoài vì quân lính sắp xông vào nhà để bắt giết Con
mình: “Bấy giờ vua Hêrôđê thấy mình bị các nhà chiêm tin đánh lừa, thì đùng
đùng nổi giận, nên sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng
lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà
chiêm tinh. ” (Mt 2,16)
Dầu vậy, Đức Mẹ vẫn luôn
trông cậy vào Chúa, không để cho những sự quá sợ này làm cho mình mất lòng
trông cậy vào Chúa.
Trong suốt cuộc đời dài của
mình, Đức Mẹ cũng gặp những điều quá lo: đó là khi Đức Mẹ lạc mất Con, không
tìm ra được một dấu vết nào trong ba ngày liền: “Sau ba ngày, hai ông bà mới
tìm thấy Con trong Đền Thờ.” (Lc 2,46)
Dầu vậy, Đức Mẹ vẫn luôn
trông cậy vào Chúa, không để cho những sự quá lo này làm cho mình mất lòng
trông cậy vào Chúa.
Trên đời này, ai muốn sống,
phải nuôi lòng trông cậy: đau mấy, cũng trông lành; mệt mấy, cũng trông khỏe; yếu
mấy, cũng trông mạnh; ốm mấy, cũng trông béo; nghèo mấy, cũng trông giàu; cực mấy,
cũng trông sướng; tội lỗi mấy cũng trông lành sạch, bối rối mấy cũng trông được
bình an,...
Vì thế, đối với những ai
không có lòng trông cậy, mọi sự trên đời này đều trở nên buồn phiền, bạc nhược,
kiệt quệ, héo úa. Họ không thể nào vui được. Họ không thể nào cười sung sướng
được. Họ không thể nào ca hát được. Họ không thể nào nói những lời êm ái, những
lời cao thượng được. Họ không còn sức để sống hạnh phúc theo thánh ý Chúa. Và nếu
họ sống mà tiếp tục không nuôi lòng trông cậy vào Chúa, thì cuộc sống của họ
mòn mỏi, tê liệt. Trong trường hợp này, họ chẳng qua chỉ là những thây ma đang
cử động, những xác chết đang ngo ngoe.
Muốn sống, chúng ta phải
nuôi lòng trông cậy.
Nhưng chúng ta phải đặt
lòng trông cậy vào Chúa như Đức Mẹ Maria, chứ đừng dại dột đặt lòng trông cậy
vào người đời, vào thế gian.
* Thế gian hứa nhiều mà không
ban được, hoặc chỉ ban những cái làm chúng ta thất vọng. Vì thế, thánh
Augustinô khiển trách thế gian: “Ớ thế gian phỉnh gạt, tại sao ngươi hứa ban
nhiều điều cho chúng ta mà ngươi không thể ban được”.
* Thế gian chỉ có thể ban cho
chúng ta được nhiều tiền bạc, nhưng tiền bạc không đem chúng ta vào được nước
thiên đàng.
* Thế gian chỉ có thể ban cho
chúng ta được nhiều thú vui, nhưng những thú vui này, nếu nhuộm mùi tội lỗi,
thì chỉ gây cho chúng ta thêm nhiều đau khổ, thêm nhiều buồn phiền thất vọng.
* Thế gian chỉ có thể ban cho
chúng ta nhiều bạn bè, nhưng bạn bè giả dối, lợi dụng thì nhiều, mà bạn bè
trung thành, tri âm thì rất ít.
* Thế gian chỉ có thể ban cho
chúng ta nhiều danh giá, chức quyền, nhưng những thứ này chỉ là mây tan trong một
sớm một chiều.
* Như vậy, thế gian không
đáng cho chúng ta hoàn toàn đặt lòng trông cậy vào đó. Chúng ta hãy đặt lòng
trông cậy vào Chúa như Đức Mẹ Maria.
Chúa Giêsu, khi còn sống,
đã từng say sưa dạy chúng ta về đức trông cậy. Chúa Giêsu luôn nhắc đi nhắc lại
Thiên Chúa là Cha chúng ta và thúc giục chúng ta luôn kêu danh hiệu đó với lòng
trông cậy: “Các con hãy cầu nguyện như thế này: “Lạy Cha chúng con ở trên trời.”
(Mt 6,9).
Chúa Giêsu dạy chúng ta biết
Thiên Chúa là Cha của chúng ta, Cha hết sức tốt lành: “Nếu các con là những kẻ
xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha các con, Đấng
ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt
7,11).
Chúa Giêsu dạy chúng ta
luôn luôn trông cậy vào sự quan phòng của Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương (x.
Mt 8,25-34).
Về phần mình, Chúa Giêsu
cho chúng ta biết Ngài là Con Thiên Chúa toàn năng và thúc giục chúng ta luôn
trông cậy vào Ngài.
* Khi thấy các tông đồ sợ hải,
Chúa Giêsu trấn an ngay: “Cứ yên tâm, Thầy đây, đừng sợ! ” (Mt 14,27)
* Khi thấy các tông đồ bối rối
lo âu, Chúa Giêsu an ủi ngay: “Lòng các con đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên
Chúa và tin vào Thầy!”(Ga 14,1)
* Khi thấy các tông đồ lung
lay, chủ bại, Chúa Giêsu tuyên bố sự thắng trận của Ngài : “Các con hãy can đảm
lên! Thầy đã thắng thế gian!” (Ga 16,33)
* Khi thấy các tông đồ buồn
phiền, Chúa Giêsu dạy họ đừng mất lòng trông cậy vào Ngài: “Thầy ở cùng các con
mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,20)
Trên thập giá, bị treo lơ lững
giữa trời và đất, trần trụi, không có gì hết, thế mà Chúa Giêsu lại ban cho
chúng ta kho tàng quý báu nhất trên trần gian này, là ban lòng trông cậy, lòng
hy vọng cho chúng ta, để trên đời này,
không gì khủng khiếp và đáng sợ, như những đau khổ rùng rợn tấn công hồn xác
chúng ta, như những khó khăn vây bủa chúng ta tư bề, và ngay cả cái chết tủi nhục,
đau thương, cũng không đè bẹp nổi chúng ta. Và Chúa Giêsu còn ban cho chúng ta
Người Mẹ Hy Vọng, Nữ Vương Hy Vọng, đó là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Đức Chúa Trời,
Mẹ Đấng Cứu Thế, và cũng là Mẹ của chúng ta! Noi gương Đức Mẹ Maria, chúng ta
hãy luôn luôn trông cậy chạy đến với Chúa.
Noi gương Đức Mẹ Maria,
càng đau khổ, càng khó khăn, càng bất lực, chúng ta càng trông cậy vào Chúa,
càng xiết mạnh cánh tay Chúa, càng nhắm mắt để cho Chúa dẫn dắt.
Noi gương Đức Mẹ Maria,
chúng ta luôn tìm cách bay bổng lên đến Chúa là nguồn hy vọng bất diệt của
chúng ta. Khi bão táp nổi lên, khi mưa gió dầm dề, chim phượng hoàng vẫn không
nao núng. Nó cất cánh bay lên thật cao, cao hơn bão táp, cao hơn mây gió, để
tìm cách hướng đến gần mặt trời ấm áp, dể chịu.
Như thánh Gioan Thánh Giá
nhận xét: “Chúng ta được Chúa ban ơn nhiều hay ít, tùy theo lòng chúng ta trông
cậy vào Chúa ít hay nhiều.” Lạy Mẹ Maria, xin cho chúng con luôn trông cậy vào
Chúa như Mẹ.
Đức Mến
Một nhà tu đức kia nhận xét: “Tai họa lớn nhất
trên trần gian này, nguồn gốc của mọi lầm lạc, của mọi tội lỗi, nết xấu, là vì
con người không yêu mến Chúa”.
Lòng yêu mến Chúa là điều
quan trọng nhất đối với chúng ta.
Chúng ta hãy suy niệm về
gương Đức Mẹ yêu mến Chúa, để bắt chước Ngài mà thi hành điều quan trọng nhất
trong đời chúng ta, là yêu mến Chúa.
Đức Mẹ yêu mến Chúa
Nhiều vị thánh quả quyết rằng
ngay từ thuở đầu thai trong lòng mẹ, vì được đặc ân khỏi tội tổ tông, Đức Mẹ đã
được kết hiệp với Chúa một cách hết sức trọn lành, bởi thế, Ngài đã kính mến
Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn mình.
Vừa lên ba tuổi, Đức Mẹ đã
dâng mình cho Chúa để có thể yêu mến Chúa hết sức mình.
* Khi biết được ý Chúa Cha muốn
Con mình sinh ra trong thành Bêlem xa xôi, Đức Mẹ hết lòng yêu mến Chúa, nên đã
vui vẻ bỏ nhà bỏ cửa ra đi, lên đường xa vất vả, giữa mùa đông rét lạnh, để thực
hiện cho được ý Chúa.
* Khi Chúa Cha muốn Con mình
phải được đem đi trốn sang Ai-Cập, vì lòng yêu mến Chúa, Đức Mẹ đã vui lòng ra
đi trong đêm tối, không dùng dằng, không than vãn.
* Khi Chúa Cha muốn Con mình
ra đi giảng đạo và chịu chết, vì lòng yêu mến Chúa, Đức Mẹ đã vui lòng để cho
Chúa Giêsu ra đi.
Lòng mến Chúa của Đức Mẹ thật
lớn lao. Càng nếm nhiều mùi khốn cực, càng trải qua nhiều thử thách, Đức Mẹ
càng yêu mến Chúa nồng nàn hơn.
Đức Mẹ mỗi ngày mỗi yêu mến
Chúa nồng nàn hơn.
* Vì Đức Mẹ luôn luôn giữ
mình sạch tội, nên Đức Mẹ yêu mến Chúa mõi ngày một nồng nàn hơn.
Tội lỗi ngăn trở chúng ta
yêu mến Chúa. Bởi thế, ai càng sạch tội nhiều chừng nào, thì tự nhiên người đó
có lòng sốt sắng yêu mến Chúa nhiều chừng đó.
* Vì Đức Mẹ ao ước yêu mến
Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn mình, nên ngày đêm, Đức Mẹ
luôn cầu xin cho được ơn cao quý nhất này. Lòng mến Chúa là điều đẹp ý Chúa nhất.
Chúa sẵn sàng ban ơn đặc biệt này một cách bội hậu cho những ai tha thiết cầu
xin.
* Vì Đức Mẹ hằng suy niệm Lời
Chúa. Càng thấm nhuần Lời Chúa nhiều, chúng ta càng hiểu biết Chúa nhiều và
càng yêu mến Chúa nhiều.
* Vì Đức Mẹ là Mẹ Con Thiên
Chúa: Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu chín tháng, bồng Chúa Giêsu ba năm trên tay,
thấy việc Con Thiên Chúa làm trước mắt, nghe lời của Con Thiên Chúa nói bên
tai, những điều này làm cho Đức Mẹ càng ngày càng yêu mến Chúa. Chúng ta càng
yêu mến Chúa Giêsu nhiều chừng nào, chúng ta càng yêu mến Thiên Chúa Cha nhiều
chừng đó.
* Vì Chúa Thánh Thần là Tình
Yêu của Thiên Chúa luôn luôn đốt lửa tình yêu Chúa trong lòng Đức Mẹ. Là Bạn Rất
Thanh Sạch của Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ mang trong lòng mình lò lửa phầng phầng
yêu mến Chúa. Chúng ta càng cầu nguyện nhiều với Đức Chúa Thánh Thần, chúng ta
càng được ngài đốt lửa mến Chúa trong lòng chúng ta nhiều chừng đó. Để tỏ lòng yêu mến Chúa,
chúng ta hãy sống theo gương Đức Mẹ thế nào?
1). Yêu mến Chúa, Đức Mẹ
luôn nghĩ đến Chúa. Chúng ta hãy luôn nghĩ đến Chúa. Tình yêu là tưởng nhớ. Bạn
bè không tưởng nhớ đến nhau, vợ chồng không tưởng nhớ đến nhau, cha mẹ con cái
không tưởng nhớ đến nhau, thì làm sao có tình yêu giữa họ được? Dấu hiệu chắc
chắn nhất để biết chúng ta có lòng yêu mến Chúa hay không, đó là sự chúng ta có
năng nhớ đến Chúa không. Chính Chúa Giêsu đã nói rõ: “Kho tàng của ngươi ở đâu,
thì lòng ngươi ở đó” (Mt 6,21). Khi chúng ta xem Chúa là kho tàng của mình, thì
tâm trí chúng ta luôn hướng về Chúa để yêu mến ngài.
2). Yêu mến Chúa, Đức Mẹ
luôn tâm sự với Chúa. Chúng ta hãy thích tâm sự, thích nói chuyện với Chúa. Yêu
ai thì thích tâm sự, thích nói chuyện với họ. Người nào yêu Chúa, dù bị ngập
lút giữa những công việc bề bộn hằng ngày, vẫn tìm đủ cách để tâm sự với Chúa,
để nói chuyện với Chúa qua những lời nguyện tắt: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa! -
Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa!”.
3). Yêu mến Chúa, Đức Mẹ
luôn nghe Lời Chúa. Chúng ta hãy thích nghe Lời Chúa. Chúa Giêsu nhấn mạnh về sự
nghe Lời Chúa: “Ai thuộc về Thiên Chúa, thì nghe Lời Chúa nói”(Ga 8,47); “Chiên
của tôi thì nghe tiếng tôi. ”(Ga 10,27).
4). Yêu mến Chúa, Đức Mẹ giữ
lòng mình không quyến luyến của cải trần ai. Chúng ta đừng để lòng mình dính
bén vào vật chất của cải ở đời này. Tình yêu Chúa trong lòng chúng ta không thể
nào đội trời chung với lòng ham mê của cải vật chất ở đời này. Chúa Giêsu đã khẳng
định rõ ràng: “Không ai có thể làm tôi hai chủ... Các ngươi không thể vừa làm
tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được.”(Mt 6,24).
5). Yêu mến Chúa, Đức Mẹ luôn tìm đủ mọi cách
để làm sáng danh Chúa. Chúng ta hãy tìm đủ mọi cách để làm sáng danh Chúa. Khi
thấy hoặc nghe điều gì hay, chúng ta tốc tả đi kể lại cho kẻ khác biết. Nếu
chúng ta thật lòng yêu mến Chúa, thế nào chúng ta cũng tìm đủ cách để làm cho mọi
người biết Chúa, không những bằng lời nói, mà nhất là bằng đời sống nêu cao
gương tốt của mình.
Chính Chúa Giêsu nói rõ: “Nếu
các con yêu mến Thầy, các con sẽ giữ các điều răn của Thầy.”(Ga 14,15). Nếu
chúng ta nói yêu Chúa nơi miệng, mà không sống Lời Chúa trong cuộc sống gương mẫu
và gương tốt của mình để làm cho Danh Chúa được sáng, Nước Chúa được đến, thì
chúng ta không phải là những kẻ yêu mến Chúa thật sự.
6). Yêu mến Chúa, Đức Mẹ
luôn cám ơn Chúa. Chúng ta hãy luôn cám ơn Chúa. Sự biết ơn phải là điểm đặc biệt
của con người có trí khôn, có linh hồn. Người nào không biết ơn, người đó không
xứng đáng làm người. Đối với Chúa cũng vậy: người nào không biết cám ơn Chúa,
người đó không xứng đáng làm con Chúa, người đó không có lòng yêu mến Chúa thật.
Đối với người yêu mến Chúa, tất cả đều là ơn Chúa ban. Vì thế, người yêu mến
Chúa luôn cám ơn Chúa trong mọi lúc, trong mọi nơi, trong mọi trường hợp.
7). Yêu mến Chúa, Đức Mẹ
luôn sống vâng theo thánh ý Chúa. Chúng ta hãy luôn sống vâng theo thánh ý
Chúa. Khi yêu mến Chúa, chúng ta không đòi hỏi Chúa phải làm gì cho chúng ta, trái
lại, chúng ta chỉ sẵn sàng vâng theo thánh ý Chúa, luôn luôn tìm thánh ý Chúa để
thi hành, luôn luôn thực hiện cho được lời nguyện: “Vâng theo ý Chúa dưới đất
cũng như trên trời”.
8). Yêu mến Chúa, Đức Mẹ
luôn yêu người vì Chúa. Chúng ta hãy yêu người như Chúa Giêsu, với Chúa Giêsu
và trong Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã dạy rõ: mến Chúa và yêu người là một, luôn
đi theo nhau, không tách lìa nhau được. Thánh Gioan nhấn mạnh điểm này: “Nếu ai
nói: “ Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối”
(1 Gioan 4,20).
Vắng bóng mặt trời, hoa hướng
dương úa tàn, ủ rũ. Khi mặt trời xuất hiện, hoa hướng dương liền hướng về vầng
dương và nở tươi lên, rạng rỡ.
Người yêu Chúa chỉ biết hướng
về mặt trời của mình, là Chúa. Họ tươi nở cuộc đời mình trong tình yêu Chúa. Họ
là những kẻ có phước, có hạnh phúc thật, ở đời này, và trong đời sau.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đầy lòng
yêu Chúa, xin Mẹ hãy cho chúng con được đầy lòng yêu Chúa như Mẹ. Amen.
Linh mục Emmanuen Nguyễn
Vinh Gioang