Thánh ALPHONSÔ LIGUORI Giám
mục, Tiến Sĩ Hội Thánh (1696-1787)
Alphonsus-Maria-de-Liguori
Thánh Alphongsô Maria
Liguori sinh ngày 27 tháng 9 năm 1696 tại Marinella gần Naples và là con trưởng
trong 7 anh em. Ngay từ trong nôi, Ngài là giao điểm tập hợp ân huệ đáng mơ ước
như trí thông minh, danh giá, tài sản, thiên khiếu nghệ thuật và một tấm lòng đại
độ.
Trong khi đó người mẹ rất đạo
hạnh nghĩ rằng: - Các ân huệ tốt đẹp nhất sẽ chẳng có giá trị gì nếu không hướng
về Chúa. Người lãnh nhiều phải trả nhiều.
Như vậy ân phúc kỳ diệu nhất
mà Alphongsô nhận được chính là giáo huấn của người mẹ. Alphongsô học tiếng Hy
lạp, tiếng Latinh, tiếng Pháp và toán. Ngài say mê âm nhạc và hội họa. Là một
con người có chí. Alphongsô gây ảnh hưởng tốt đối với chúng bạn. Bằng sự trong
trắng tế nhị và lòng đạo đức của mình. Một người bạn kể lại rằng: có lần thua
cuộc chơi và giận dữ đến độ trở nên sỗ sàng. Alphongsô buồn phiền nghỉ chơi và
nói: - "Chúa không muốn tôi được chút tiền đã khiến cho bạn làm phiền lòng
Ngài"
Thế rồi Alphongsô biến mất
vào vườn. Các bạn đổ xô đi tìm Ngài và gặp Ngài đang quỳ cầu nguyện trước tượng
Đức Mẹ đặt trên cành cây. Người bạn xấu xúc động nói: - "Tôi đã làm phiền
một vị thánh".
Alphongsô thành công rất sớm
trên cùng đời. 17 tuổi Ngài đậu bằng tiến sĩ luật khoa cả về giáo luật lẫn dân
luật và đã bắt đầu hành nghề luật sư. Khả năng hùng biện của Ngài hứa hẹn một
tương lai sáng lạn. Nhưng tuổi trẻ cũng có cớ dẫn Ngài tới lỗi lầm với trong hậu
quả bi thảm, năm 1723 trong một vụ kiện, Ngài biện hộ với một giọng nói hùng hồn.
Lý lẽ vững chắc, làm cho cả tòa án phải ngỡ ngàng tán thưởng. Nhưng khi vừa dứt
lời, đối thủ ôn hoà vạch ra một lỗi nhỏ mà Ngài không nhận thấy. Chính lỗi nhỏ
đó đã tiêu hủy luận chứng lẫn danh tiếng của Ngài.
Thất bại Alphongsô rất đau
buồn và đã đóng cửa phòng hai ngày liền. Ngài suy nghĩ và tự hỏi rằng:
"Đây không phải là lời mời gọi của Chúa hay sao...? Bỏ nghề, Ngài nói: -
"Ôi thế gian, ta đã biết ngươi. Hỡi pháp đình, ngươi sẽ không còn gặp ta nữa".
Ngài tìm đường sống và dấn
thân cho công cuộc bác ái. Một ngày kia, đang khi thăm viếng các bệnh nhân
trong một nhà thương, Ngài nghe hỏi: - "Ngươi làm gì ở thế gian này?"
Nhìn chung quanh Ngài không
thấy ai, nhưng Ngài vẫn nghe hỏi một lần nữa. Vào một nguyện đường dâng kính Đức
Mẹ từ bi gần đó, Ngài hứa sẽ gia nhập dòng giảng thuyết và làm linh mục. Đặt
thanh gươm trên bàn thờ Ngài nói:- "Lạy Chúa này con đây, xin hãy làm nơi
con điều đẹp lòng Chúa. Con là gì và con có chi, con xin hiến dâng để phụng sự
Chúa".
Nghe tin này cha Ngài giận
dữ, Ngài quyết bỏ nghề, bỏ cả vị hôn thê của Ngài sao? Ngài đã trả lời rằng: đối
với Chúa chẳng có hy sinh nào gọi là quá lớn lao cả. Ngài cương quyết giữ ý định
và cha Ngài không thèm nhìn đến Ngài nữa. Năm 1726, Ngài thụ phong linh mục.
Thánh nhân rao giảng khắp
vương quốc Naples. Cha Ngài giận dữ quyết không chịu nghe. Ngày kia ông vào một
thánh đường, đúng lúc con ông đang thuyết giảng. Thoạt đầu ông giận dữ, nhưng rồi
dần dần ông mềm lòng. Ơn Chúa đã đến nhờ lời giảng dạy của con ông. Kết thúc giờ
phụng vụ ra về ông nói: "Con tôi đã làm cho tôi được biết Chúa".
Suốt đời, thánh Alphongsô
không những chỉ nỗ lực trong công việc tri thức mà còn lo tiếp xúc với dân
chúng. Ngài chỉ thích việc ngồi tòa hơn là việc nghiên cứu. Ngài mang đặc điểm
của một linh mục truyền giáo. Thành quả của Ngài thực hiện được chính là dòng
Chúa Cứu Thế, thành lập tại Scala tháng 11 năm 1732. Dầu cho từ đầu, hội dòng
đã bị phân rẽ thành hai phe và thánh Alphongsô phải khởi đầu lại, với hai người
bạn, nhưng hội dòng cũng khởi sự lớn dần. Dòng được chuẩn nhận ngày 21 tháng 2
năm 1749.
Năm 1548 thánh nhân xuất bản
bộ thần học luân lý, được đức giáo hoàng Bênêdictô XIV phê chuẩn và gặt trong
nhiều thành quả tức thời.
Năm 1762 Đức Clementô XIV đặt
Ngài làm giám mục cai quản địa phận Agata. Ngài nỗ lực thăng tiến lòng đạo đức
trong điạ phận, khởi sự từ viêc canh tân hàng giáo sĩ. Năm 1775 Ngài được đức
giáo hoàng Piô VI cho phép từ nhiệm để về sống trong dòng tại Nocera.
Những năm cuối đời, thánh
Alphongsô đã trải qua rất nhiều đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần. Dầu trong
"đêm tối của linh hồn" Ngài vẫn không nao núng và luôn kiên trì cầu
nguyện. Ngài nói: "Ai cầu nguyện sẽ được cứu thoát, ai không cầu nguyện sẽ
tự luận phạt". Cuối cùng Ngài tìm được bình an và qua đời năm 1787.