Hc 42, 15-26 (Hl 15-25)
"Các công trình của
Chúa đầy ánh vinh quang của Người".
Trích sách Huấn Ca.
Tôi sẽ ghi nhớ công trình của
Chúa, và sẽ thuật lại những điều tôi đã thấy. Nhờ lời Chúa mà Chúa đã thực hiện
những kỳ công. Mặt trời chiếu soi vạn vật, và công trình của Chúa đầy ánh vinh
quang của Người.
Nào Chúa đã không ban cho
các thánh được cao rao các việc kỳ diệu của Người, những việc mà Chúa toàn năng
đã củng cố trong vinh quang của Người sao?
Người dò xét vực thẳm và
lòng con người, thấu biết những mưu chước của họ, vì Chúa thấu suốt mọi sự và
theo dõi những dấu thời đại, tuyên bố những gì thuộc về dĩ vãng và hậu lai, tỏ
bày những dấu vết các việc ẩn kín. Không một tư tưởng nào mà Người không biết,
không một lời nào có thể giấu được Người.
Người sắp đặt những kỳ công
sự khôn ngoan của Người. Người có trước muôn đời và tồn tại muôn thuở, không thêm
không bớt, không cần đến vị cố vấn nào. Mọi công trình của Người thực đáng quý
chuộng, và như những ánh lửa người ta có thể ngắm nhìn. Mọi vật ấy đều sống động
và tồn tại muôn đời, và vâng phục Người trong mọi hoàn cảnh. Tất cả đều có từng
đôi và cái này đối diện với cái nọ, và Người không làm chi khuyết điểm. Vật này
làm nổi bật vẻ đẹp cho vật kia. Và ai có thể nhàm chán nhìn xem vinh quang của
Người?
Thiên Chúa tạo dựng thế giới
cho thấy phải là một lời mời gọi con người ngắm nhìn và ca ngợi quyền năng cao
cả và lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với công trình do Người sáng tạo. Ở đây
nhắc nhở Thiên Chúa chính là Chủ thế giới, Người là Đấng nắm chủ quyền tuyệt đối
trên thế giới và là Đấng sáng tạo tuyệt vời của thế giới, Người là Đấng sáng tạo
và điều hành thế giới. Như thế Thiên Chúa có một mối liên hệ nội tại với chính
thế giới, tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn ngự một thế giới tuyệt đối siêu việt đối với
thế giới. Còn thế giới thì lại ở một dạng khác đối với Thiên Chúa. Thế giới vừa
tỏ ra vừa hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, vừa thực sự tự lập với Thiên Chúa.
Điều này nhằm khẳng định rằng, từ nguyên thủy, thế giới bắt nguồn từ Thiên Chúa
và lúc nào cũng chịu sự chi phối của Thiên Chúa, lúc nào thế giới cũng nằm
trong sự lệ thuộc Thiên Chúa; nhưng vì Thiên Chúa khai triển thế giới để thế
giới hiện hữu tự lập, cho nên thế giới sinh hoạt trong thế tự lập đối với Thiên
Chúa.
Như vậy, một khi ý thức
Thiên Chúa là tác giả và là Đấng điều khiển thế giới, người ta sẽ có một thái độ
khác với Thiên Chúa. Đó là một thái độ cung kính, quy phục Đấng Sáng tạo, vì thấy
vũ trụ càn khôn được sắp đặt một cách trật tự, hài hòa cùng với những kỳ vĩ của
nó mà con người chưa thể hiểu biết hết được. Mặt khác, khi được thụ hưởng các
tài nguyên đa dạng phong phú của thế giới, con người tự mình phải hình thành một
thái độ biết ơn sâu xa đối với Thiên Chúa, thể hiện qua lời kinh ca ngợi, cảm tạ.
Được kinh nghiệm thế nào là quyền năng và đức khôn ngoan của Thiên Chúa tỏ hiện
trong các thế lực nguyên sơ và trong cách Thiên Chúa an bài mọi sự trong vũ trụ,
con người thấy mình có thể hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa và khi
rơi vào cảnh gian truân con người nói lên lòng tin tưởng tín nhiệm đó bằng những
lời cầu nguyện van xin.
Thử nghĩ mà xem, Thiên Chúa cấu tạo cơ thể con người một cách rất hợp lý, nhưng sao chúng ta lại không sử dụng nó theo đúng ý của Ngài:
Ngài đặt hai mắt chúng ta ở
đằng trước, vì Ngài muốn chúng ta luôn hướng tới phía trước, chứ không phải để
chúng ta cứ ngoái nhìn về những sự việc ở phía sau.
Ngài đặt hai tai chúng ta ở
hai bên là để chúng ta nghe từ hai phía, cả lời khen lẫn tiếng chê, chứ không
phải để chúng ta chỉ nghe từ một phía hoặc chỉ để nghe những lời tâng bốc êm
tai.
Ngài tạo cho chúng ta chỉ một
cái miệng và một cái lưỡi mềm mại, vì Ngài muốn chúng ta nói ít nghe nhiều và
chỉ nói những lời khôn ngoan, chứ không phải để chúng ta nói nhiều hơn nghe và
nói những lời sâu hiểm làm tổn thương người khác.
Ngài đặt bộ não chúng ta
trong một hộp sọ vững chãi vì Ngài muốn chúng ta nên tích lũy tri thức, những
thứ chẳng ai có thể lấy đi, chứ không phải chỉ chăm lo tích lũy những của cải
bên ngoài, những thứ dễ dàng bị mất mát.
Ngài đặt trái tim chúng ta
nằm trong lồng ngực, vì Ngài muốn những tình cảm yêu thương giữa những con người
phải được xuất phát và lưu giữ tận nơi sâu thẳm trong cõi lòng, chứ không phải ở
một nơi hời hợt bên ngoài.









