Tôi biết là có ngày tôi sẽ
chết. Mặc dầu tôi không biết sẽ chết
ngày giờ nào, nơi nào, cách nào.
Chắc chắn tôi phải chết. Đó
là một chân lý hết sức rõ ràng và chắc chắn. Chân lý này, không ai đã dạy tôi.
Nó nằm ngay trong con người của tôi.
Cái chết cũng là một biến cố
đụng tới mọi người. Nó là một vấn đề chung. Vấn đề này được coi là hết sức quan
trọng. Bởi vì nó đặt ra câu hỏi: Đâu là
ý nghĩa cuộc sống? Cuộc đời đi về đâu? Bên kia sự chết có gì không?
Câu trả lời theo lý thuyết
có thể tìm được trong nhiều sách, nhất là sách đạo. Nhưng câu trả lời theo cảm nghiệm sẽ thường
chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh những người sắp chết, hoặc
chính ta đã có lần thập tử nhất sinh.
Những lúc đó, câu trả lời sẽ
không phải là một kết luận lạnh lùng của triết học hay của giáo lý. Nhưng sẽ là cái gì linh thiêng thăm thẳm chứa
trong những cảm tình, cảm xúc, cảm động, cảm thương, khi hiện tượng sự chết rập
rình sát tới.
Những hiện tượng khác thường
nơi người sắp chết rất đa dạng. Có thể là những lo âu sợ hãi, những khắc khoải
đợi chờ, những nắm bắt bâng khuâng, những ngóng trông mệt mỏi, những cái nhìn
xa xăm. Cũng có thể là những bất bình tức
giận, những chán nản phiền muộn, những buông xuôi tiếc nuối, những phấn đấu tuyệt
vọng. Cũng có thể lại là những ăn năn đầy bình an toả sáng, mang dấu ấn của một
nghị lực thiêng liêng và một tin tưởng đến từ cõi đời đời.
Tất cả những hiện tượng như
thế phản ánh những trực cảm nội tâm: Đã tới lúc vĩnh biệt. Đã tới lúc ra đi. Đã
tới lúc phải bỏ lại tất cả. Đã tới lúc phải trực diện với lương tâm. Lương tâm
hỏi về trách nhiệm: Trách nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm làm con Chúa
nói riêng.
Trước đây, có nhiều điều về
trách nhiệm đã lẩn trốn lương tâm. Nhưng lúc con người sắp chết, những điều lẩn
trốn đó sẽ trở về trình diện rất nghiêm túc.
Tôi có cảm tưởng là người sắp
chết lúc đó sẽ nhận ra: Sự sống của mình là một quà tặng Chúa ban. Ơn gọi được
làm con Chúa càng là một ân huệ quí báu
Chúa trao cho nhưng không. Chúa ban sự sống và ơn làm con Chúa, để mình phát
triển, mình và những người xung quanh trong những chặng đường lịch sử nhất định.
Sự phát triển sẽ tùy ở ơn Chúa, nhưng cũng tuỳ thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người.
Thực tế cho thấy là đã có
những phát triển đạo đức, và trái lại cũng có những phát triển tội lỗi. Với những
phát triển tốt, người sắp chết cảm thấy được an ủi, coi như nhiệm vụ được trao
đã phần nào hoàn thành.
Trái lại nếu thấy những
phát triển của mình là xấu, nhiệm vụ được trao đã không hoàn thành, họ sẽ không
thể không sợ hãi. Bởi lẽ hậu quả sẽ vô cùng quan trọng. Vì chết là bước sang
cõi đời sau với hai ngã: thiên dàng và hoả ngục. Mà hai ngã này đều rất rõ ràng
công minh.
Vì thế, nói cho đúng, vấn đề
đặt ra cho ta về cái chết sẽ không phải là sợ chết, mà là sợ chết dữ, chết mà
sau đó không được lên thiên đàng, nhưng phải xuống hoả ngục.
Những tư tưởng trên đây thường
nhắc nhủ tôi về ba chọn lựa này:
1. Hãy tiến về sự chết của
mình như tiến tới một quãng phải vượt qua, để về với Cha trên trời.
Một khi nhìn sự chết của
mình như thế, thì cuộc sống của mình cũng được hiểu theo hướng đó.
Để đi đúng hướng về Cha
trên trời, tôi chỉ có một đường phải chọn, đó là Chúa Giêsu Kitô Người là đường, là sự thực và là sự sống (Ga
14,6). Đón nhận Người, lắng nghe Người, đi theo Người, bắt chước Người. Người
là gương mẫu cho ơn gọi làm người và ơn gọi làm con Thiên Chúa. Điều quan trọng
tôi sẽ hết sức quan tâm trong việc theo Chúa Giêsu sống ơn gọi, là phải phấn đấu
thanh luyện mình, phải biết khiêm tốn quên mình, dấn thân sống theo ý Chúa, để
được trở thành tạo vật mới. Nếp sống kiêu căng cần phải bị loại tận gốc. Nếp sống
cầu nguyện khiêm nhường cần được thường xuyên phát huy.
2. Hãy tiến về sự chết của
mình như người được sai đi truyền giáo, mong trở về với Đấng sai mình.
Sống như người truyền giáo
và chết như người truyền giáo. Truyền giáo một cách cụ thể ở địa phương này,ở
thời điểm này. Nghĩa là một địa phương và thời điểm có nhiều khác biệt. Vì thế,
tôi phải tỉnh thức lắng nghe hướng dẫn của Đức Thánh Thần, Đức Kitô Ngài đang dẫn
người truyền giáo vào chiều sâu. Ngài đang giúp người truyền giáo mở rộng nhiều
liên đới. Ngài đang tạo ra cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan báo Tin Mừng.
Tôi có luôn khiêm tốn cầu nguyện hồi tâm, để trở thành dụng cụ ngoan ngoãn
trong tay Ngài không?
3. Hãy tiến về sự chết của
mình như người khắc khoải trở về với Đấng đã trao cho mình điều răn mới.
Điều răn mới này, tôi nhận
được từ Lời Chúa: "Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con
hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 13,34).
Để hiểu thấm thía hành
trình tình yêu, tôi nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây của thư thánh Gioan:
"Chúng ta biết rằng:
chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ
không yêu thương, thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ
sát nhân.Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong
nó. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã
thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì
anh em. Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà
chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?
Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót
lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều
đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an
lòng trước mặt Thiên Chúa" (1Ga 3,14-19).
"Phần chúng ta, chúng
ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói:
"Tôi yêu mến Thiên Chúa " mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói
dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến
Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ
Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình" (1 Ga
4,19-21)
Khi tôi sống với những hướng
kể trên, tôi sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ.
Nhiệm vụ được chấm dứt.
Nhưng nhiệm vụ có được hoàn thành hay không, đó là chuyện khác và đó mới là điều
quan trọng. Chúa sẽ phán xét công minh điều đó. Ở đây, tôi có lý do để lo, bởi
vì tôi biết tôi đã lỗi phạm nhiều.
Biết lo là điều tốt. Không phải lúc gần chết mới lo, mà phải lo
ngay bây giờ. Biết lo ở đây là tìm cách sửa mình, đổi mới mình nên tốt hơn. Coi
như bắt đầu lại.
Khởi sự từ quyết tâm tận dụng
ngày giờ còn lại và những phương tiện trong tầm tay để chu toàn các nhiệm vụ được
trao một cách tốt đẹp nhất. Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón nhận Nước Trời vào bản
thân mình bằng sám hối và tin mến khiêm cung.
Những nỗi lo như thế là chính đáng. Khi chúng ta làm hết sức
mình, thì những nỗi lo đó sẽ đem lại những tiến triển và hân hoan. Với hân hoan
và tin tưởng nơi Chúa giàu tình yêu thương xót, chúng ta bình tĩnh đi về sự chết.
Sự chết lúc đó chỉ là bước sang sự sống mới vô cùng tốt đẹp hơn trước. Và
như thế, sau cùng, chỉ có thần chết là
phải chết thôi.
Nguồn nước mắt
ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần
Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều
hình ảnh. Trong số đó, có một thứ hình ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây
trong tôi nhiều cảm xúc và suy nghĩ. Thứ hình ảnh đó là các nghĩa trang.
Tôi đã viếng nhiều nghĩa
trang.Tại Việt Nam, tại Ý, tại Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vatican.
Tôi đến viếng các nghĩa
trang, chủ ý để suy gẫm, cầu nguyện, và cũng để tìm cảm nghiệm. Có thứ cảm nghiệm
chỉ tìm được ở nghĩa trang. Tôi đã nghĩ
như vậy và đã làm như vậy, khi tôi viết luận án: “Đau khổ của tình yêu”.
Đã có những cảm nghiệm độc
đáo in rất sâu vào lòng tôi từ các nghĩa trang. Đặc biệt là từ những dòng nước
mắt ở nghĩa trang.
Có những nước mắt của tình
yêu dạt dào.
Có những nước mắt của nỗi
buồn, nhung nhớ.
Có những nước mắt của lòng
hối hận khôn nguôi.
Có những nước mắt của tấm
lòng tha thứ muộn màng.
Có những nước mắt của ân
tình, hiếu nghĩa.
Có những nước mắt của niềm
tin sâu sắc mong chờ.
Khi đi sâu hơn một chút giữa
các dòng nước mắt, tôi có thể cảm nghiệm được một số khám phá quan trọng:
Khám phá ra những chân lý
nhân sinh.
Khám phá ra những hy vọng ứu
độ.
Khám phá ra chính mình.
Khám phá ra chân lý.
Những nước mắt ở nghĩa
trang là những tiễn biệt thân thiết. Tiễn biệt người đã chết, người vĩnh viễn
ra đi. Sự chết là một sự thật không cần bàn tới. Nhưng đó lại là một chân lý cực
kỳ quan trọng.
Bất cứ ai, rồi cũng phải chết.
Cái chết đáng sợ. Nhưng đáng sợ hơn lại là cái gì đàng sau cái chết. Đáng sợ,
vì nó quá bất ngờ. Biết đâu, trong số mồ mả, cũng có những hồn vì thế mà đang
khóc ròng rã đêm ngày.
Ai cũng phải chết. Nhưng sự
Chúa đánh giá từng người sau khi chết thường vượt quá sự con người suy
nghĩ. Dụ ngôn người phú hộ: Người phú hộ đó sống đời này được đầy đủ, sung sướng,
an nhàn, xét mình chẳng thấy gì là xúc phạm Chúa, chẳng thấy gì là làm hại ai.
Nhưng người phú hộ đó đã bị rơi vào hoả ngục. Chỉ vì sống thiếu thương cảm, thiếu
liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương. Trái lại, người ăn mày kia đã được
lên thiên đàng. Vì dù bị chìm trong cảnh khổ, anh đã sống nêu gương về đức
khiêm nhường, hiền lành và chân thật. Không được người dư dật chia sẻ, anh phải
sống đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy con chó đói ăn.
Nhờ ơn Chúa, những sự thực
như trên đã được nhiều người nhận ra một cách sâu sắc trong những dòng nước mắt
tại nghĩa trang. Những chân lý đó đã thay đổi đời họ.
Ngoài ra, biết bao người nằm
trong nghĩa trang và khóc tại nghĩa trang cũng đã tìm được hy vọng cuộc đời qua
một ngả khác.
Khám phá ra hy vọng
Không thiếu trường hợp, tôi
đã chứng kiến những cuộc trở về. Họ đã trở về từ những dòng nước mắt của một
người nào đó. Người đó cầu nguyện cho họ. Người đó khóc với họ thay vì nói với
họ.
Một lúc bất ngờ, lời Chúa
Giêsu phán xưa trở thành chuyện đời họ. Chúa an ủi họ rằng: “Người khoẻ mạnh
không cần thầy thuốc. Người đau ốm mới cần. Hãy về học biết ý nghĩa của câu
này: Cha muốn lòng nhân, chứ đâu cần của
lễ. Vì Cha đến, không để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi”
(Mt 9,12-13).
Những lời dịu dàng đó đã đi
sâu vào lòng họ. Cõi lòng vốn đóng kín, khoá chặt, chất chứa những u uất, thất
vọng, nay mở ra để hy vọng tràn vào.
Họ cảm thấy mình được xót
thương, được yêu thương. Họ sám hối. Họ cảm thấy mình được tha thứ. Và chính họ
cũng dễ dàng tha thứ. Một sự bình an lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ. Họ ra đi bình
an trong sự tin tưởng phó thác tuyệt đối ở Chúa giàu lòng thương xót. Họ khóc
vì xúc động, đây là những dòng nước mắt đầy tình cảm tạ.
Những người chứng kiến cũng
không cầm được nước mắt. Những dòng nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt
ngào niềm hy vọng cứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Tại những nghĩa trang, thấy
người ta khóc, nhất là khi chính mình khóc, tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu
nói: Cha thương con, Cha thương mọi người. Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu,
tôi khám phá ra chính mình tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn.
Khám phá ra chính mình trong sự thực trần trụi.
Khám phá để giúp trút bỏ những
cái nhìn ảo. Nhìn ảo về mình. Nhìn ảo về những công việc của mình. Nhìn ảo về
người khác. Nhìn ảo về cuộc đời.
Để cũng nhận ra rằng: dù với
những yếu đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương:
Gọi hãy cảm thương.
Gọi hãy chia sẻ.
Gọi hãy trở về.
Gọi hãy hiến dâng.
Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ.
Gọi hãy sám hối và tín
thác.
Gọi hãy vượt qua sự chết và
mọi nghĩa trang, để bay vào cõi phúc đời đời.
Ơn gọi đó sẽ thực hiện được,
miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong tình Chúa yêu thương. Như lời Chúa kêu gọi: “Hãy ở lại trong Cha,
như Cha ở lại trong các con”(Ga 15,4).