Thánh ANTÔN Viện Phụ (Thế kỷ
IV)
Ngày 17/01
Thánh Antôn chào đời năm
250 tại Corma, gần Hieraclens, miền thượng Ai cập. Cha mẹ Ngài nổi danh giàu có
lẫn đạo đức, đã lo lắng dạy dỗ Ngài sống đạo ngay từ nhỏ. Khi được 18 tuổi thì
cha mẹ Ngài qua đời. Sáu tháng sau ngày mất cha mất mẹ, tại một giáo đường,
thánh nhân đã nghe đọc lời sách thánh: "Nếu con muốn nên trọn lành, hãy về
bán hết của cải và đem phân phát cho kẻ nghèo khó rồi theo Ta" (Mt 19,21).
Tưởng như Thiên Chúa nói riêng với mình đã về bán hết của cải và đem phân phát
cho người nghèo khó.
Sau khi lo lắng gửi gấm em
gái của mình cho một nữ tu viện, Ngài lui vào sa mạc để làm việc và cầu nguyện,
Ngài theo đuổi một cuộc sống rất khắc khổ, chỉ ăn bánh với muối và uống nước
ngày một lần sau khi mặt trời lặn. Để giữ được sự cô tịch trọn vẹn, Ngài còn ẩn
thân vào một ngôi mộ bỏ trống. Thỉnh thoảng một người bạn mang bánh đến cho
Ngài bánh đến cho Ngài nhưng ma quỉ đã tìm cách quấy phá để trục Ngài ra khỏi
"căn phòng" và cuộc sống khắc khổ, chúng thường hay la hét và hiện
hình kỳ quái. Phản ứng lại, thánh nhân thường cầu nguyện nhiều hơn và tăng gấp
những việc hãm mình. Giận dữ vì các mưu mô bị thất bại, ma quỉ còn công khai
hành hạ Ngài nữa.
Một ngày kia người bạn mang
bánh đến, bỗng thấy thánh nhân nửa sống nửa chết, mình đầy thương tích. Nhưng
khi vừa bừng tỉnh, thánh nhân liền chỗi dậy và la lớn:
- Tôi còn sẵn sàng chiến đấu.
Lạy Chúa, không, không gì có thể tách lìa con khỏi lòng yêu mến Chúa được.
Giữa những đau đớn vì các
cuộc tấn công của ma quỉ, Ngài khinh bỉ trả lời:
- Ồn ào vô ích. Dấu thánh
giá và lòng tin tưởng vào Chúa là những thành trì kiên cố.
Thánh nhân luôn tin tưởng
nơi Chúa. Ngày kia, được an ủi trong tâm hồn và cảm thấy là ma quỉ đã lùi bước,
Ngài cầu nguyện:
- Ôi, lạy Chúa! Chúa ở đâu?
Sao Chúa không ở đây lau sạch nước mắt và thoa dịu những dày vò của con?
Tiếng Chúa trả lời:
- Cha ở gần con, cha giúp
con chiến đấu. Bởi vì con đã chống trả lại ma quỉ, cha sẽ bảo vệ quãng đời còn
lại của con. Cha sẽ làm cho tên con rạng rỡ trên trời.
Tràn đầy nghị lực, thánh
nhân chỗi dậy tạ ơn Chúa. Muốn xa mọi người hơn nữa, Ngài vượt sông Nil đến trú
ngụ trong một pháo đài hoang phế đầy những rắn rết. Nhưng sự thánh thiện của
Ngài như một sức nam châm, vẫn thu hút nhiều người đến xin làm môn đệ. Thế là một
phong trào ẩn tu nổi lên mạnh mẽ. Sa mạc mọc lên những mái tranh, từ đó không
ngừng vang lên những lời kinh ca khen Chúa. Thánh nhân trở nên vị thủ lãnh của
nếp sống ẩn tu.
Dầu vậy, thánh An tôn đã
hai lần từ giã sa mạc. Vào năm 311 khi có cuộc bách hại của Alaximiô, Ngài nói:
- Nào ta cùng đi chiến đấu
với anh em ta.
Ngài lên đường đi
Alexandria. Người ta thấy thánh nhân khích lệ các tù nhân nơi các trại giam,
theo họ tới trước quan tòa và khuyên nhủ họ can đảm chết vì đạo, Ngài còn xuống
hầm trú để an ủi các linh mục. Ngài thoát chết là một điều lạ lùng.
Cuộc bách hại chấm đứt được
một năm, thánh nhân lại tìm về sa mạc. Số các môn sinh ngày càng tăng thêm
đông. Sợ bị cám dỗ thành kiêu căng, và thấy gương các thánh tử đạo, thánh Antôn
khao khát sống khắc khổ để đền tội. Ngài tiến sâu hơn nữa vào sa mạc. Sau ba
ngày đi theo đoàn người buôn bán, Ngài dừng lại gần biển Đỏ, dưới chân núi
Kolzim và dựng một căn lều vừa đủ để nằm để ở. Dân Bê-đu-anh (Bédouins) cho
Ngài bánh ăn. Về sau các môn sinh tìm tới và mang cho Ngài một cái xuổng với một
ít hạt giống, đây là nguồn gốc của tu viện thánh Antôn hay là Deir-el-Arat, một
tu viện theo nghi lễ Cốp (Copte) ngày nay vẫn còn.
Lần thứ hai, thánh nhân trở
lại Alexandria theo lời mời của đức giám mục Athanasiô, để chống lại lạc giáo.
Dân chúng cả thành chen lấn nhau đi đón Ngài. Các lương dân cũng bảo nhau:
- Chúng ta đi gặp người của
Thiên Chúa.
Nhiều người cảm động vì những
bài diễn thuyết và những phép lạ Ngài làm, đã xin lãnh bí tích rửa tội, người
ta tưởng sẽ gặp một lão già tám mươi hoang dại, nhưng đã ngạc nhiên khi thấy Ngài
rất lịch thiệp, xử dụng ngôn ngữ văn hóa và diễn tả tư tưởng rất uyên thâm. Các
triết gia ngoại giáo ngạc nhiên hỏi Ngài:
- Ngài làm gì được trong sa
mạc không có sách vở chi hết ? Thánh nhân trả lời:
- Thiên nhiên đối với tôi
là một cuốn sách mở rộng.
Và người ta ngỡ ngàng về những
điều thánh nhân đã khám phá được trong cuốn sách vĩ đại này của Đấng Tạo hóa.
Điều đáng kể dường như
không phải những nhiệm nhặt Ngài theo đuổi, mà là tâm hồn trong trắng Ngài kết
hiệp mật thiết với Chúa, Ngài nói:
- Hư danh là kẻ thù nguy hiểm
nhứt của chúng ta.
Danh tiếng của thánh Antôn
lan rộng đến nỗi vua Constantinô và con cái ông đã viết thư tham khảo ý kiến
Ngài, Môn sinh của Ngài hãnh diện lắm. Nhưng Ngài bảo họ:
- Đừng ngạc nhiên lắm khi
thấy nhà vua là một con người viết thư cho một con người. Đáng ngạc nhiên là
chính Thiên Chúa đã muốn viết luật cho loài người, và đã nói với chúng ta qua đức
Giêsu Kitô.
Và trả lời cho lớp người
vương giả ấy, Ngài dùng những lời cao thượng để khuyên họ biết khinh chê danh vọng
mà nhớ tới cuộc chung thẩm.
Khi Ngài đã quá 90 tuổi,
Thiên Chúa qua một thị kiến đưa ngài đến thăm thánh Phaolô ẩn tu trong sa mạc.
Ngài còn được cho biết là sẽ sống tới tuổi 105.
Biết sắp tới giờ từ giã trần
gian, Ngài đi thăm anh em Ngài lần chót. Ngài nói với họ về sự chết với niềm
vui của người hồi hương. Họ đã khóc ròng, nhưng Ngài khuyên nhủ họ:
- Hãy sống như phải chết mỗi
ngày. Hãy cố gắng noi gương các thánh.
Thánh nhân trở lại núi với
hai môn sinh. Trong căn phòng nghèo nàn của mình, Ngài đã phó linh hồn trong
tay Chúa lúc 105 tuổi. Chúng ta biết được ân sủng giai thoại quý báu của đời
thánh Antôn là nhờ thánh Athanasiô kể lại.