Dừng
lại một chút, ta thấy những nghi thức này trong thánh lễ
quá kỳ diệu.
Chúa
ở cùng anh chị em là gì? Tại sao linh mục cần nhận lại
lời cầu chúc:
-
Và ở cùng cha.
Nhiều
lần, nhiều nơi, trong nhiều thánh lễ, khi nói lời cầu
chúc này, theo cách thế bên ngoài, thì có linh mục không
nói bằng tâm hồn. Nói qua cho xong. Vì linh mục vừa nói,
nhưng không đối thoại với giáo dân, thiếu chuẩn bị
nên đang bận mở sách. Hoặc vì muốn chóng xong, cắt
ngắn thời gian. Không có thời gian đón nhận lời giáo
dân cầu chúc: Chúa ở cùng cha. Giáo dân đáp lại cho có
lệ. Những lời chúc như thế trong thánh lễ nhạt nhẽo
làm sao! Khi họ không tha thiết trong lời cầu chúc, thì
làm sao dám nói họ thiết tha trong mong ước Chúa thật sự
đến với người họ cầu chúc. Nếu vậy, Chúa ở đâu
trong mối tương quan họ với Chúa, với nhau? Thiếu tha
thiết trong lời cầu chúc, thì khó mà xác định mình
thiết tha Chúa đến với người mình chúc. Từ đó, làm
sao định nghĩa đấy là một thánh lễ sốt sáng.
Khi
họ không nhận định kỹ “Chúa ở cùng anh chị
em” là gì, thì làm sao rõ “Chúa ở cùng
chúng ta”, và “Chúa ở cùng tôi” quan
trọng đến đâu. Họ đánh mất ý nghĩa tên gọi
Emmanuel.
Emmanuel
là tên gọi của Thiên Chúa. Bởi đó, lời cầu chúc
trong thánh lễ “Chúa ở cùng anh chị em” là
lời rất quan trọng. Và, thánh lễ là gì nếu chúng ta để
mất vẻ đẹp: Chúa ở cùng chúng ta?
Emmanuel
-
Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai,
người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là “Thiên
Chúa ở cùng chúng ta” (Mt. 2:24).
Khởi
đầu Phúc Âm, Mátthêu giới thiệu tên của Thiên Chúa là
Emmanuel, nghĩa là tên gọi đó được phiên dịch ra: Thiên
Chúa ở cùng chúng ta. Và rất đẹp, hôm nay chúng ta cụ
thể hóa tên gọi đó trong lời chào của thánh lễ: “Chúa
ở cùng anh chị em.” “Và ở cùng cha.”
Kết
thúc Phúc Âm, Mátthêu để chính Ðức Kitô tự nói về
mình bằng lời chấm dứt như sau:“Và đây, Thầy ở
cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt.
28:20).
Mở
đầu và kết thúc một cuốn sách là dẫn vào và đưa
tới cho người đọc toàn thể cuốn sách đó nói gì. Tư
tưởng trọn gói ở đây, tên gọi của Thiên Chúa là ở
cùng con người.
Tình
yêu nào ở cùng
Thiên
Chúa không yêu thương con người bằng cách từ trên cao
nhìn xuống.
Thiên
Chúa không cứu chuộc con người bằng cách ở trên cao
vớt con người lên.
Thiên
Chúa xuống thế làm người. Thiên Chúa ở cùng.
Trong
cuộc sống nhân loại, con người thường cứu nhau bằng
sức mạnh của kẻ hơn. Kẻ có sức mạnh hơn, nhìn xuống
kẻ yếu. Tôi giàu có hơn, tôi giúp đỡ anh. Tôi khỏe
mạnh hơn, tôi vớt anh lên.
Màu
nhiệm tình yêu Thiên Chúa lại không như thế. Mà là một
tình yêu ở cùng. Kinh Thánh chỉ định, tên con trẻ là
Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng.
Tại
sao tình yêu lại hệ tại ở cùng mà không phải ở trên
thương xuống?
Tại
sao tình yêu lại không là nhìn xuống để vớt lên mà
lại là cùng xuống để nhìn?
Người
môn sinh ưu tư với những băn khoăn.
Nắng
trong vườn đã ngả dạt qua bờ dậu. Ráng chiều hoàng
hôn rũ xuống lòng người môn sinh trẻ đang tầm thầy
học đạo. Anh đã viết về tình yêu, đã nghe về tình
yêu. Nhưng tình yêu vẫn là một huyền nhiệm. Tình yêu
là gì?
Người
môn sinh nhớ câu chuyện xa xưa:
-
Thưa thầy, chúng con không chấp nhận nó được, nó ăn
cắp, nó láu cá, nó làm biếng. Xin thầy đuổi nó về.
Mấy
chú đệ tử nhỏ báo cáo với thầy. Và vị thiền sư đã
bảo:
-
Nó không biết phải, không biết trái nên mới cần ở
với thầy. . .
Phêrô
cũng thế, đã có lần Ðức Kitô gọi Phêrô là Satan.
Nhưng Ngài không đuổi Phêrô. Ngài bảo: “Lui lại đàng
sau Thầy.” Lui lại phía sau, chứ không là đuổi đi xa.
Vì Satan đang ở trong con, nên con cần ở cùng Thầy.
Ðời
người là những chặng đường kiếm tìm. Huyền nhiệm
cuộc sống mở ra như những cánh hoa. Một ngày không tìm
kiếm là một ngày chết ủ. Cánh hoa phải mở ra, bật
lên thành màu. Bấy giờ mới là cánh hoa. Cuộc sống cũng
thế, những ấp ủ băn khoăn kia phải bật lên thành màu
mới là cuộc sống. Và ta phải tìm kiếm. Tại sao tình
yêu lại hệ tại ở cùng? Nhất là tên gọi kia của tình
yêu Thiên Chúa. Tại sao lại là Thiên Chúa ở cùng chúng
ta? Ðể giúp người học trò tìm kiếm. Nhà đạo sĩ hỏi
người học trò:
-
Ngày con đau, mẹ con không là thầy thuốc. Bà không có
quyền lực cứu con khỏi bệnh. Sao bà cứ đứng bên
giường nhìn con, ngay cả khi con ngủ?
-
Thưa thầy, vì thương con.
-
Bà có chữa con hết bệnh được không?
-
Thưa thầy, không.
-
Không chữa được, vậy đứng đó làm gì?
Người
học trò ngập ngừng.
-
Thưa thầy, vì thương con.
-
Thương, nhưng không làm sao chữa bệnh cho con được. Vậy
thương là gì?
Người
học trò bắt đầu hiểu. Tình yêu không cứ là “doing”,
mà là “being.” Nghĩa là ở cùng. Thật
ra, ở cùng, không phải là không làm gì. Bởi “ở
cùng - being” đúng nghĩa là sự hiện hữu trọn
gói. Khi linh mục nói “Chúa ở cùng anh chị em”,
mà chỉ nói vì công thức cho qua. Như thế, sẽ là
có “doing” đó, nhưng vắng mặt
của “being.” Khi bà mẹ nhìn con ngủ
trong cơn đau. Cứ chốc chốc, bà đến bên giường nhìn
con ngủ. Bà không có năng lực chữa bệnh cho con.
Bà
không“doing” được điều gì theo nghĩa sản
xuất. Bà chỉ hiện diện trọn gói tâm hồn bà ở đó.
Ðấy là chiều sâu của ngôn ngữ ở cùng, là “being.”
Trong
cuộc sống, tôi cần một người nhìn tôi. Nói với tôi
là cuộc sống, có họ ở cùng với tôi. Người vợ dọn
cơm chiều, chỉ mong chồng về, đến bên cạnh, thầm nói
rằng “anh ở cùng em.”Buổi chiều đó có thể
trở thành hương hoa. Họ cần cái ở cùng này. Người ta
kinh nghiệm trong cuộc sống thực như thế. Không ai chỉ
hạnh phúc bởi tấm pay check, có “doing” mà
không có“being”. Trong nỗi đau, con người thường
kêu:
-
Lạy Chúa, xin cất chén đắng này cho con.
Họ
muốn Thiên Chúa “doing”. Chúa hãy lấy quyền
năng mà hành động. Nếu Chúa không cất nỗi đau cho con
mà chỉ “being”, nghĩa là chỉ đau với con
thôi thì có ích gì. Người ta lý luận tình yêu thì phải
cụ thể bằng hành động. Chúa thương tôi, Chúa phải
hành động, xin hãy tặng tôi những món quà tôi xin. Tình
yêu Thiên Chúa lại không như thế. Thay vì cứu con người
khỏi chết thì lại chết với con người. Thay vì cứu
con người khỏi đau thì lại đau với con người. Trong
nỗi bực dọc, con người oán trách Thiên Chúa. “Ông
không phải là Ðấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và
cứu cả chúng tôi với!" (Lc. 23:39). Con người
thách thức Thiên Chúa, cứu tôi đi, nếu thực sự thương
tôi. Rồi tôi sẽ tin. Ðức Kitô không lấy quyền năng để
cứu những tiếng kêu này. Ngài cũng không lấy quyền
năng thoát khỏi cái chết này.
Tại
sao tình yêu không là cứu người mình yêu khỏi chết, mà
là chết cùng?
Trước
khi tiếp tục đề tài. Vị đạo sĩ nhắc người học
trò về một kinh nghiệm:
-
Nỗi đau là không có ai đau cùng, chứ chưa hẳn là không
có ai cất cho mình nỗi đau. Làm sao con có năng lực làm
cho người chết sống lại? Con không cất được nỗi đau
đó.
Nhưng
nếu con đau cùng, “being” bên cạnh người
đang đau. Thì nỗi đau kia nhẹ vơi. Làm sao trong tình yêu
mà người ta nói: Anh không cất được nỗi đau của em.
Rồi người đàn bà đi sanh con một mình. Người đàn ông
rất thực tế. Tôi không sanh con thay vợ tôi được. Tôi
không “doing” gì được.
Ông
ở nhà đi câu.
Hạnh
phúc và đau khổ không là cứu, là cho, mà là ở cùng.
Thiên
Chúa ở cùng.
Người
học trò im lặng suy nghĩ. Anh lắng nghe. Trong cái tĩnh
mịch, anh mơ hồ nhìn thấy từ vùng im lặng đó, bật
lên màu sắc của cuộc sống. Như những cánh mỏng thức
giấc dần, bật màu thành bông hoa. Vị tôn sư như sợ
người học trò ngần ngại với lời mình. Ông cắt nghĩa
thêm:
-
Thầy giả sử một vị tổng thống quyền uy, ông chỉ
gật đầu, gia nhân của ông sẽ đem những người tỵ
nạn vào nước ông. Ðó là cách nhìn xuống. Ðó là cách
vớt lên. Nhưng giả sử, vị tổng thống ấy nghe tin còn
mấy trăm người tỵ nạn mười mấy năm bơ vơ không quê
hương. Nghe tin, ông tội nghiệp. Ông bỏ văn phòng. Ông
đến với người tỵ nạn. Ông hỏi người tỵ nạn làm
gì kiếm sống qua ngày. Dạ thưa ngài, tôi làm nghề rửa
xe. Ðể hiểu, hiểu để thương, ông tổng thống quyền
uy kia, mặt mũi lấm lem, quẹt mồ hôi, tóc bù xù dính
dầu nhớt xăng, cũng chầu chực rửa xe, cũng ở bến xe,
cũng gặm bánh mì. Con có thể hình dung một tổng thống
nào dám làm thế không?
Người
học trò im lặng hơn. Trong tâm trí anh. Anh không thể hình
dung có chuyện đó. Anh hiểu ý vị tôn sư đang muốn nói,
Thiên Chúa đã làm như vậy. Ðó là ý nghĩa Emmanuel, Thiên
Chúa ở cùng chúng ta.
Khi
cho một món quà là cho một phần tài sản. Khi cho chính
mình là cho hết. Không thể cho hết khi mình không cùng
giống thân phận người đó. Bởi thế, vô cùng tuyệt
vời khi Phúc Âm tường thuật về người lính canh như
sau:
Ðức
Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. (Mc
15: 37).
Viên
đại đội trưởng đứng đối diện với Ðức Giêsu,
thấy Người tắt thở như vậy liền nói:
"Quả
thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15: 39).
Hai
sự kiện đặc biệt trong cụm từ “Tắt Thở” mà
ta phải kiếm tìm.
-
Thứ nhất, lúc tạo dựng con người. Thiên Chúa thở hơi,
cho Ađam sự sống. Bấy giờ Thiên Chúa chỉ cho một chút
hơi thở. Nhưng ở đây, Ngài không cho một chút hơi, mà
Tắt Thở. Nghĩa là cho hết không còn hơi để thở. Như
thế, tên gọi Emmanuel, càng ngày theo chiều lịch sử cứu
độ càng trở nên rực rỡ. “Thiên Chúa ở cùng
chúng ta”, lời tung hô ấy như ngọn pháo bông muôn
màu bật tung lên trong thánh lễ.
-
Sự kiện thứ hai là viên đội trưởng, lính canh nhận
ra Ngài là Con Thiên Chúa khi Ngài “Tắt Thở”.
Tắt thở là giây phút yếu nhất của một đời người.
Ðáng lẽ ông ta phải nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa trong
những việc quyền năng, những phép lạ lớn lao. Tại sao
lại nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa trong giây phút yếu
đuối nhất?
Vị
tôn sư nói với người học trò:
-
Con ạ, hình ảnh người lính canh ở đây cho chúng ta một
chiều sâu thiền niệm mà không biết ngọn núi cao nào,
không biết vùng thinh lặng nào mới chỉ bảo cho chúng
hết ý nghĩa. Trong giây phút yếu nhất ấy của Chúa
Kitô, ông ta nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa. Còn chúng ta,
chúng ta quá yếu đuối tâm linh nên không nhìn ra sức
mạnh trong sự yếu đuối như người lính canh.
Trời
đã vào khuya, hai thầy trò, vị tôn sư và người thanh
niên tầm thầy học đạo như thả hồn mình về biến cố
hai nghìn năm trước trước mầu nhiệm Tắt Thở của một
người. Trong tâm trí anh, anh không thể nào hình dung vị
tổng thống kia dám trở nên yếu đuối như một người
tỵ nạn được. Anh bắt đầu hiểu hơn, vị tổng thống
ấy chỉ có thể thương xót bằng từ trên nhìn xuống,
bằng từ trên vớt lên. Ông ta không thể xuống để ở
cùng.
Ở
cùng là trở nên một thân phận. Ðấy là chiều sâu khó
nhất của tình yêu. Khó nhất mà cũng đẹp nhất. Phải
trở nên thân phận thì mới hiểu. Hiểu mới có thể
thương. Trong ý nghĩa này, thương bao giờ cũng phải là ở
cùng.
Người
học trò, như vẫn ưu tư. Nếu tình yêu là ở cùng. Tại
sao Ðức Kitô lại kêu lên trong giờ sau hết: “Lạy
Cha, Cha bỏ con sao đành Cha?”
Vị
tôn sư như đọc hết ý nghĩ thầm kín của học trò
mình. Ông ôn tồn bảo:
Chiều
sâu của tình yêu là ở cùng. Ðêm nay trời đã vào
khuya. Con về ngủ đi. Tại sao Chúa Cha không lấy quyền
năng như lời Ðức Kitô cầu xin, cất chén đắng này cho
con?
Tại
sao Chúa Kitô như quá cô đơn vậy?
“Lạy
Cha, Cha bỏ con sao đành Cha?” Ðâu
là ý nghĩa ở cùng?
Ðây
là Tình Yêu và Quyền Năng. Chúng ta sẽ nói tới.
Trời
khuya rồi. Ðêm thường nói với chúng ta nhiều ý nghĩa
cuộc sống. Ðêm nói về thân phận mù lòa, vất vả đi
tìm. Những giờ phút tăm tối cuộc sống, khổ làm sao.
Nhưng nhờ đêm mà ta phải khắc khoải. Nhờ khắc khoải
tìm kiếm mà hồn ta mới thức giấc. Và con ạ, không bao
giờ đêm dài bất tận. Ngày mai có ánh bình minh.
Vị
tôn sư đi về am thất. Người học trò vẫn ngồi lại.
Anh đang nhìn vào cõi sáng của bóng đêm. Thứ cõi sáng
và bóng đêm của riêng anh.
Từ
lời cầu chúc “Chúa ở cùng anh chị em.” “Và ở
cùng cha.” Thánh lễ phải là mầu nhiệm diễn tả
tên gọi làm người của Thiên Chúa, Emmanuel, Chúa ở cùng
chúng ta. Mỗi thánh lễ, nếu ta trân trọng trong lời chào
này, thì thánh lễ quá ngọt ngào. Thánh lễ là một diễn
giải tuyệt vời mầu nhiệm Thiên Chúa yêu thương. Chúng
ta hạnh phúc nối tiếp bí tích kỳ diệu đó qua những
lời chào mang cả một chiều kích thần học rất sâu:
-
Chúa ở cùng anh chị em.
-
Và ở cùng cha.
Lm.
Nguyễn Tầm Thường, S.J.
(Trích
tập suy niệm “Kẻ đi tìm”)