Trong cuộc sống, mỗi lần gặp nhau, chúng ta thường
hay hỏi: “anh hay chị có bình an không?” Hay trước khi ra về, người ta cũng thường
hay chúc nhau “về bình an nhé”... Khi lên đường khởi đầu một chuyến hành trình
nào đó, ta cũng mong sao chuyến lữ hành của mình được bình an.
Ngày xưa, người Sêmít cũng có thói quen chào
người sắp đi rằng: “ông; bà...hãy đi bình an” (x. 1 Sm 1,17; 20,42; 29,7). Ngày
nay, người Arập cũng còn chào như vậy. Còn người Do thái thì rút gọn hơn khi
nói: “Bình an” mà thôi.
Như vậy, hai chữ “bình an” là điều mà mọi người
đều mong muốn. Tuy nhiên, mỗi người hiểu về bình an dưới những lăng kính khác
nhau. Các tôn giáo cũng mặc cho nó một ý nghĩa riêng biệt theo giáo lý của tôn
phái mình. Bình an mà hôm nay Đức Giêsu trao ban cho các môn đệ không phải là
thứ bình an như người đời vẫn hiểu: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban
cho các con bình an của Thầy, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng”(Ga
14,27).
Vậy bình an theo kiểu thế gian ban tặng là gì?
Và bình an của Đức Giêsu trao ban là sao? Chúng ta cùng nhau tìm hiểu:
Bình an theo lối hiểu của con người
Trong kinh nghiệm tự nhiên của con người, đói
khát, mất quyền lực, thất bại, bất an hay sự chết là điều làm cho con người
luôn sợ hãi và mất bình an. Đỉnh cao của nỗi sợ đó chính là sợ mất sự sống.
Chính vì vậy, người ta đều mong muốn được an vui và hạnh phúc, tức là ơn bình
an. Tuy nhiên, bình an mà Đức Giêsu trao ban cho các môn đệ là một thứ bình an
đặc biệt. Đặc biệt vì không phải theo kiểu người đời, mà theo thánh ý Chúa.
Hằng ngày, chúng ta vẫn thường thấy tại các
công trường hay những nơi xây dựng, người ta căng những băng rôn có nội dung
như: “an toàn là trên hết”; “an toàn là bạn – tai nạn là thù”. Qua những biểu
ngữ đó, người ta mong sao cho công việc lao động, xây dựng của họ được an toàn.
Ở đây, bình an chính là không xảy ra tai nạn trong khi lao động.
Khi tham gia giao thông, chúng ta, ai ai cũng đều
mong muốn không bị đụng xe, cướp giật, mong đi đến nơi về đến chốn an toàn. Ở
đây, bình an là không có chuyện bất trắc xảy đến.
Rồi, trong cuộc sống, lúc còn trẻ, ai cũng mong
muốn được đáp ứng những nhu cầu về tiền bạc, quần áo... khi lớn lên một chút
thì mong được thi cử đỗ đạt, nghề nghệp ổn định, lấy vợ gả chồng được vừa ý.
Khi đã ngoài 50 tuổi, ai chẳng muốn con cái ngoan hiền, ổn định. Và, khi đã đến
tuổi xế bóng, cái tuổi chân yếu tay mềm, “thất thập cổ lai hy” thì lại mong con
cái hiếu thảo, không phải tất bật lo toan những chuyện như: cơm - áo - gạo - tiền nữa. Cuối cùng, cuộc đời an
nhàn thư thái là điều mà ai trong chúng ta lại không mơ về nó?.
Bình an của Đức Giêsu
Đức Giêsu đã để một gia sản quý giá hơn hết mọi
thứ, đó chính là sự bình an. Ngài không nói: “Anh em hãy ở lại bình an”, mà
nói: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”.
Bình an của Đức Giêsu trao tặng cho các môn đệ
không chỉ dừng lại ở việc an toàn về mặt thể xác, mà còn đi xa hơn để đạt được
thứ bình an trong sâu thẳm trong tâm hồn. Bình an này hướng người ta về mầu nhiệm
cách chung, nhiệm cục cứu độ. Đức Giêsu Ngài chính là nguồn bình an, Ngài ban cho các ông chính bình an của
Ngài.
Sống đặc tính ơn bình an
Khi Đức Giêsu trao ban bình an cho các môn đệ,
Ngài cũng muốn mời gọi mỗi người chúng ta sống đặc tính của ơn bình an. Đặc
tính đó là đón nhận chính nguồn ơn cứu độ và đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với
Thiên Chúa là nguồn cội của bình an.
Sống trong đặc tính ơn bình an của Chúa còn là ở
lại trong sự quan phòng của Ngài: “...Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng
sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc [...] Hãy xem chim
trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em
trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai
trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang
không? ...” (Mt 6, 25-29).
Tiếp theo, đặc tính của ơn bình an mang tính
siêu việt, quy hướng về Quê Trời: "Anh em đừng tích trữ cho mình những kho
tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách và lấy đi. Nhưng
hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát,
nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được” (Mt 6, 19-21).
Cuối cùng, đặc tính này mời gọi chúng ta yêu
thương nhau. Khi đã có Chúa là nguồn bình an. Có Chúa là tất cả, chúng ta cũng
phải biết yêu thương nhau và sống đức công bằng. Hành vi này đã được Dakêu cảm
nghiệm và diễn tả thật sâu sắc. Chuyện kể rằng: một hôm, Đức Giêsu vào thăm nhà
một người thu thuế tên là Dakêu. Ngài ở lại đó dùng bữa chung với gia đình ông.
Sự hiện diện của Ngài làm ông rất cảm động. Những cử chỉ của Đức Giêsu được kể
là một sự chúc bình an cho gia đình ông. Được ơn bình an đó, ông Dakêu tự nhiên
không những cảm mến Đức Giêsu, mà còn cảm thấy có trách nhiệm yêu thương đồng
bào mình. Để cụ thể hoá lòng thương yêu đó, ông thưa với Đức Giêsu rằng:
"Này đây, phân nửa tài sản của tôi, tôi xin phân phát cho người nghèo. Và
nếu tôi đã làm hại ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn" (Lc 19,8).
Như vậy, bình an mà Đức Giêsu ban tặng cho các
môn đệ chính là bình an nội tâm. Bình an tuyệt đối. Bình an vượt xa lối hiểu của
con người.
Đón nhận sự bình an của Chúa cũng chính là đón
nhận chính Chúa, bởi vì Chúa là nguồn bình an (x. Ga 4,8,16; Rm 16,20).
Sống đặc tính của ơn bình an cũng chính là đi
vào sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa và tin tưởng phó thác vào Ngài. Và,
khi đã có Chúa trong cuộc đời thì cũng phải biết đem Chúa đến cho người khác bằng
những cử chỉ yêu thương, thân thiện và sống đức công bằng.
Mong sao lời chào chúc bình an trong mỗi thánh
lễ: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em” luôn ngự trị trong tâm hồn mỗi chúng
ta, để tâm hồn chúng ta luôn được bình an và được hưởng ơn cứu độ.
Lạy Chúa, Chúa là nguồn bình an, xin ban bình
an của Chúa xuống trên chúng con như xưa kia Chúa đã trao ban cho các môn đệ.
Xin cho con được sống ơn bình an đó một cách sâu xa, để tận sâu thẳm tâm hồn,
chúng con an vui hạnh phúc vì có bình an của Chúa ở cùng. Amen.
Jos.Vinc. Ngọc Biển