Ads

Thứ Năm, 23 tháng 4, 2015

MÁI ẤM GIA ĐÌNH

Trong công cuộc xây dựng gia đình, không thể một mình đàn ông xây dựng, cũng không thể một mình người đàn bà có thể xây dựng nổi, mà đòi buộc cả hai bên cùng nỗ lực xây dựng như người ta nói:
Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm.

1. Tránh đơn thương độc mã.        
Đơn thương độc mã là một thành ngữ có ý nói: hễ ai đó chỉ có một mình phải gánh vác, phải đương đầu với công việc nặng nhọc hoặc nguy hiểm mà không được sự hỗ trợ của người khác.

Đó là tình trạng đơn độc lẻ loi.
Đơn thương độc mã là thành ngữ Hán-Việt,  trong đó có đơn đối độc, thương đối mã. Xét về nghĩa đen, đơn là một, là chiếc, trái với kép và đôi, còn độc có nghĩa là một mình. Sự láy nghĩa giữa đơn và độc trong thành ngữ nhấn mạnh sự lẻ loi, đơn độc. Các từ thương với nghĩa là ngọn giáo, mã với nghĩa là ngựa đều chỉ phương tiện võ khí chiến đấu.  Tổ hợp các thành tố với nhau, ta có thành ngữ đơn thương độc mã với nghĩa đen là “một ngọn giáo một con ngựa”.

Đối với một người ra trận thì một ngọn giáo, một con ngựa là đủ, không thiếu thốn gì. Nhưng đối với một trận chiến đấu mà một bên là cả một đạo quân hùng dũng và một bên chỉ có một ngọn giáo, một con ngựa thì tương quan lực lượng thật quá chênh lệch và cái thế đơn độc, lẻ loi càng bộc lộ rõ ràng. Trong cảnh huống này thành ngữ đơn thương độc mã không còn được hiểu với nghĩa đen là “một giáo, một ngựa” mà biểu thị một con người lẻ loi, đơn độc trong chiến trận. Điều dễ nhận thấy là do chỗ gắn liền với gươm, giáo, gắn liền với giao tranh mà ý nghĩa của thành ngữ đơn thương độc mã chủ yếu được dùng để chỉ sự đơn độc, lẻ loi trong chiến đấu với quân thù.
Tuy nhiên, trong sử dụng ngôn ngữ, thành ngữ này cũng được dùng để chỉ các phạm vi hoạt động khác. Cho đến ngày nay, thành ngữ đơn thương độc mã được dùng rộng rãi trong tiếng Việt hàm chỉ tất cả những việc làm thiếu sự hỗ trợ của người khác, phải tự mình đương đầu với khó khăn, vất vả, hiểm nguy, bất kể đó là công việc trong chiến đấu, sản xuất hay hoạt động khoa học.
(Hoàng văn Hành, Kể chuyện, thành ngữ, tục ngữ, 2003, tr 205-207)
2. Hãy chung lưng đấu cật.
Thành ngữ “chung lưng đấu cật” có nghĩa là cùng góp sức và dựa vào nhau trước khó khăn chung (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, 1988).
Chung lưng đấu cật là một cách nói về truyền thống đoàn kết của nhân dân ta. Nó biểu thị sự hợp tác giữa một tập thể để chống chọi và vượt qua, chiến thắng khó khăn, để đi đến một một mục đích chung cao đẹp (Sđd, tr 153).
Muốn xây dựng được một mái ấm gia đình vợ chồng luôn phải chung sức chung lòng, kề vai sát cánh mới mong đi đến thành công:
                        Em về cắt rạ đánh tranh,
                     Chẻ tre, chẻ lạt cho anh lợp nhà.
                        Sớm khuya hoà thuận đôi ta,
                     Hơn ai gác tía, lầu hoa một mình
3. Hãy đồng cam cộng khổ.
Thành ngữ “đồng cam cộng khổ” là một thành ngữ Hán Việt mà ý nghĩa của nó được hình thành trên cơ sở nghĩa biểu trưng của các thành tố: đồng(cùng), cam(ngọt), cộng(chung), khổ(đắng). Ở thành ngữ này, vị ngọt (cam) biểu trưng cho sự sung sướng, hạnh phúc, vị đắng (khổ) biểu trưng cho sự bất hạnh, hoạn nạn.Từ ý nghĩa cụ thể cùng hưởng vị ngọt, cùng chung vị đắng, thành ngữ đồng cam cộng khổ hình thành nên ý nghĩa khát quát của nó.  Trong hạnh phúc hay bất hạnh, con người cần phải san sẻ cho nhau, cùng hòa vào cuộc sống chung, coi niềm hạnh phúc hay nỗi bất hạnh của mọi người như của mỗi người và như của riêng mình vậy.
                                 Đàn ông đi biển có đôi,
                                 Đàn bà đi biển mồ côi một mình.
Câu ca dao trên đây có lẽ cũng đồng nghĩa với câu tục ngữ sau đây:
                                 Đàn ông vượt bể có chúng có bạn,
                                 Đàn bà vượt cạn chỉ có một mình.
Truyện: chia ngọt sẻ bùi.
Câu thành ngữ đồng cam cộng khổ cũng đồng nghĩa với chia ngọt sẻ bùi. Kiểu nói thường được hiểu theo nghĩa bóng là hai người luôn cảm thông và nâng đỡ nhau trong cuộc đời. Thế nhưng, vào cuối tháng 10/1994, báo chí Mỹ đưa tin về một cặp vợ chồng vừa mới thành hôn, chưa kịp đi hưởng tuần trăng mật thì người chồng 46 tuổi đã phải nhập viện vì thận hư, phải thay gấp mới mong sống nổi!  Người vợ cũng sẵn sàng nhập viện với chồng, chịu giải phẫu để chia cho anh... một trái thận!  Một sự chia sẻ rất cụ thể và rất quí giá. “Chia ngọt sẻ bùi” ở đây hiểu theo cả nghĩa đen nữa.
Thế là cả hai vợ chồng đều vui vẻ hưởng những ngày đầu đời hôn nhân trong bệnh viện.

KẾT LUẬN
Mái ấm gia đình luôn là công lao xây dựng của vợ chồng, không riêng của ai. Mỗi người xây đắp một phương diện. Phải biết vun xới cho gia đình, “của chồng công vợ”, đừng sống như chỉ có một mình mà hãy thực hiện lời dạy trong Thánh Kinh: ”Tôi muốn trở nên mọi sự cho mọi người”, ít ra hãy thực hiện điều ấy cho người bạn đời.
Lm Giuse Đinh lập Liễm